Saturday, January 28, 2017

Xuân Thì - Phạm Duy



xuan-thi-1_zpsbgzffr2e.jpg

xuan-thi-2_zpseiumtx9v.jpg

xuan-thi-3_zpsvuofgxy2.jpg

xuan-thi-4_zpsf6a7x8up.jpg

Xuân Thì – Sáng Tác: Phạm Duy
Trình Bày: Julie Quang (Pre 75)


Mời đọc thêm:
Nhạc Xuân Phạm Duy Và Những Mùa Xuân Miên Viễn

Thái Hiền, ca sĩ thể hiện hay nhất nhạc phẩm Trên Đồi Xuân do nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác năm 1975.
Là tác giả của chừng một nghìn bài hát, nhạc sĩ Phạm Duy cũng đóng góp cho đời vài chục bản nhạc xuân. Cũng như nhạc xuân của các tác giả khác, nhạc xuân Phạm Duy ghi lại cái đẹp của thiên nhiên, con người mỗi độ xuân về. Trong bài Hoa Xuân, người nghe thấy xuân về trên bãi cỏ non, về theo gió xuân, về theo lũ ong bướm nô đùa trên những đóa hoa xuân tươi thắm. Người nghe bắt gặp một đàn em bé quê, một chàng thi sĩ, một bầy thôn nữ hân hoan đón mừng xuân. Phạm Duy cũng hay mơ về những mùa xuân thái hòa của đất nước. Xuân Thì có lẽ là một trong những bài nhạc xuân có giai điệu đẹp nhất. Êm ái, du dương, nồng nàn, Xuân THì lột tả được cảm giác thư thái của con người khi đón những mùa xuân thanh bình:

Tình xuân chớm nở đêm qua
Khi mùa chinh chiến đã lui ra ngoài đời

Và thương cây súng cô đơn
Hoa đào đã nở trên vết mòn chiến xa…


Nhưng nhạc xuân của Phạm Duy không dừng ở đó. Đối với ông, những mùa xuân đi qua rồi trở lại giống như một kiếp người xoay vòng trong sinh tử, luân hồi. Nhạc xuân của Phạm Duy vượt lên tất cả, nhìn con người đang đi trong dương gian, trong không gian và thời gian, mỗi kiếp người qua đi rồi cũng sẽ quay lại như những mùa xuân bất tận. Trong một giai điệu ngũ cung hết sức đơn giản, bài Xuân Ca đã kể lại rằng mùa xuân đầu tiên của ta đã có từ trước khi ta ra đời, từ lúc cha mẹ ái ân trong đêm tân hôn:

Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui
Một đêm, một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về…


Rồi những mùa xuân kế tiếp khi ta “… góp chung kêu gào thiết tha…” cất tiếng khóc chào đời, rồi lớn lên có những mùa xuân nhân tình “…xuân tôi sang, bến yêu tôi tìm gió trăng…”. Tác giả yêu kiếp sống làm người đến độ chỉ mong khi mình chết đi lại được tái sinh làm người tình trong cuộc đời mới: “… dù nay, dù mai cũng như mọi ai chết trong địa cầu… thì xin, thì xuân hãy cho tình nhân sống thêm vài lần. Xuân xuân ơi, xuân hỗi, xuân ơi…”. Xuân Ca có lẽ là bản nhạc xuân của Phạm Duy được nhiều người hát nhất. Càng lớn tuổi, ta càng nghe và càng hát bài này với nhiều nỗi niềm hơn…

Cũng tương tự như Xuân Ca, nhưng ít được biết đến hơn, bài Xuân Hành* trả lời câu hỏi muôn đời của nhân loại: “ Người là ai, từ đâu đến, và người ơi, người sẽ bước chân đi về đâu…”. Câu trả lời của Phạm Duy là như mỗi mùa xuân đi rồi lại đến, kiếp người trở về với chân như, để được tái sinh như những mùa xuân miên viễn:

“… người là ta, một mùa xuân tỏa ánh nắng mai
Bước lên đời mang một duyên tình duyên mới
Người là ta đường nhân ái còn đi mãi mãi
Hết bước xuân, TA gọi nhau về với NGƯỜI…”


Vào mùa xuân 1975, mùa xuân sau cùng của Miền Nam Việt Nam, nhạc sĩ Phạm Duy có sáng tác một loạt ca khúc xuân hết sức đặc sắc: Mùa Xuân Du Ca, Trên Đồi Xuân, Mừng Xuân… Ra mắt giới yêu nhạc chỉ được vài tháng trước khi mất nước, có lẽ vì thế mà những ca khúc này chưa được phổ biến nhiều.

Đáng nói nhất có lẽ là bài Mừng Xuân. Nhiều người cho rằng nếu ra đời sớm hơn một vài năm, ca khúc Mừng Xuân có thể có một vị trí bất tử tương tự như bài Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Cũng với điệu Valse phơi phới, tác giả gởi lời chúc mừng xuân đến mọi người, mọi nhà:

… Xin mừng anh chiến sĩ nơi tiền phương giữ đất cho Việt Nam hùng mạnh
Nơi đồng xanh chúc bác dân cày luôn, lúa tốt hoa màu tươi suốt năm
Xin mừng cho phố xa nơi thành đô, giới bán buôn giàu to lời nhiều…
…Mừng tôi đã ngày thêm một lớn, lớn thêm cùng những vui buồn…”


Những mùa xuân của Miền Nam chỉ tạm gián đoạn. Hy vọng sẽ có một ngày thật gần, mùa xuân dân chủ thực sự sẽ trở về trên quê hương Việt Nam, cùng ca khúc Mừng Xuân của nhạc sĩ Phạm Duy…

(Theo Việt Báo)

Phụ lục 1: Trên đồi xuân - Thái Hiền




Phụ lục 2: Xuân ca - Duy Quang (Pre 75)



Phụ lục 3: Mùa xuân du ca - Duy Quang  (Pre 75)





Phụ lục 4: Mừng xuân - Thái Hiền & Duy Quang (Pre 75)






* Ngày Xuân, Nghe Lại Ca Khúc "Xuân Hành" Của Phạm Duy

Có phải là ngẫu nhiên không mà hai nhạc phẩm đầy tính chất anh hùng ca của Lizst và Beethoven đều lấy âm giai Mi giáng Trưởng (Mi bémol Majeur)? Đó là Cầm tấu khúc số 1 của Lizst có tên là "Héro" và Cầm tấu khúc số 5 của Beethoven có tên là "Emperor" viết cho đại đế Napoléon.

Trong nền tân nhạc Việt, các ca khúc về lịch sử hay những bài hùng ca thường được viết trên âm giai Fa Trưởng. Nói về nhạc thuật, các âm giai Trưởng như Do, Ré và Fa nghe thấy trong sáng và hợp với giọng Kim. Khi giọng Kim là giọng chính (chant), bè phụ thường được viết thấp hơn để làm nổi giọng chính. Những ca khúc như " Việt Nam Minh Châu Trời Đông" của Hùng Lân, "Nước Non Lam Sơn" hay "Bóng Cờ Lau" và "Tiếng Chim Gọi Đàn" của Hoàng Quý, "Hội Nghị Diên Hồng" hay "Bạch Đằng Giang" của Lưu Hữu Phước, "Việt Nam, Việt Nam" của Võ Đức Thu, "Việt Nam Anh Dũng" của Dương Thiệu Tước", "Việt Nam Hùng Tiến" của Thẩm Oánh...v.v. đều được viết trên cung Fa Trưởng.

Thật sự, thì âm giai trong sáng hay u tối, êm dịu hay gay gắt chỉ có ảnh hưởng với nhạc khí, chứ không ảnh hưởng với giọng hát. Giọng hát nhẹ êm hay mạnh mà cứng là do âm sắc (timbre) của người trình bày. Giọng Thổ thường dầy hơn giọng Kim, ngược lại thì giọng Kim lanh lảnh và thánh thót hơn giọng Thổ. Riêng các nhạc sĩ sáng tác và sử dụng dương cầm, mà Frederic Chopin là một điển hình, thì chuộng loại âm giai mang nhiều dấu giáng (bémol). Ông cho rằng đàn những nốt giáng (phím đen trên dương cầm) thì tiếng đàn êm hơn, và về kỹ thuật thì ngón tay trườn trên phím, càng sâu càng dễ di chuyển lả lướt hơn...

Trong khung cảnh chung như vậy, ca khúc "Xuân Hành" của Phạm Duy lại được viết trên cung Mi giáng Trưởng, trong sáng mà êm dịu hơn âm giai Fa Trưởng.

Những ai mới nghe ca khúc này thì tự hỏi rằng tác giả dùng chữ "hành" trong ý nghĩa nào. Hành có thể là hành trình, hành khúc, hoặc biết đâu còn là một thể thơ cổ, như bài "Tỳ bà hành" mà ai cũng biết qua bản dịch của Phan Huy Vinh, hay bài "Hiệp khách hành" mà các độc giả của Kim Dung có thể còn nhớ và nhất là "Hành phương Nam" của Nguyễn Bính?

Người nghe hay người thưởng ngoạn có quyền mở rộng sự cảm nhận để hiểu tác phẩm từ sở thích hay nhận thức khác biệt của mình.

Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy là người cẩn trọng, như tên của ông.

Trong cuốn "Ngàn Lời Ca" được xuất bản tại hải ngoại năm 1987, ông giải thích khung cảnh sáng tác của từng bài mà gọi đó là "sự tích". Ông trình bày rằng mình đã soạn nhiều ca khúc về hành trình của con người trong cuộc đời, trong đó có ba bài hành là "Lữ Hành", "Dạ Hành" và "Xuân Hành". Chúng ta liền hiểu ra ý nghĩa của chữ hành trong tác phẩm.

Nếu "Lữ Hành" là cuộc hành trình thơ thới và bất tận của loài người và được ông sáng tác tại Sài Gòn vào năm 1953 đầy hy vọng thì "Dạ Hành" là lúc con người đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không là một khái niệm về thời gian khi thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm hóc của phận người và ca khúc cũng được viết tại Sài Gòn nhưng mà là Sài Gòn khói lửa của chiến chinh năm 1970.

Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi bình thường là bài "Xuân Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài hành kia. Hành trình bình thường và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là "người là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu".... Người từ lòng người đi ra rồi sẽ trở về lòng người. Người vừa là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài....Nhất là biết vui buồn giữa hai nhịp đập của con tim, ngay cả khi tim ngừng đập.

Với khoảng cách thời gian, nghĩa là có thêm sự chín muồi của cuộc sống, ta có thể nghe lại ba bài hành này mà thoát khỏi hoàn cảnh của Sài Gòn thời 53, 59 hay 70. Nghe lại với tâm cảnh của chính mình. Đấy cũng là lý do mà tôi thích bài "Xuân Hành" hơn cả.

Về nhạc thuật thì đấy là một ca khúc có nhịp điệu uy nghi hùng dũng, trong sáng mà êm dịu chứ không chát chúa như nhiều bài hùng ca hoặc một khúc quân hành. Bài "Lữ Hành" rất hay nhưng ít người hát vì từ đầu đến cuối là dùng nhịp chõi – syncope. Đôi khi có người còn trình bày theo điệu "swing" khá giật mà không phản ảnh được nội dung sâu sắc thánh thiện của lời ca. So với "Lữ Hành" thì bài "Xuân Hành" dễ hát hơn, nhưng cũng cần trình bày hợp ca nên đòi hỏi kỹ thuật hòa âm mới diễn tả hết giá trị của tác phẩm. Phải chăng vì vậy mà ngày xưa, chúng ta ít được nghe ca khúc này ở ngoài các chương trình của đài phát thanh?

Bây giờ mà nghe lại, khi tư duy đã lắng đọng, người ta còn thấy ra một giá trị khác, là nội dung của lời từ.

Phạm Duy đã dẫn chúng ta vào tác phẩm với lời giới thiệu về câu hỏi muôn đời là người từ đâu tới và đi về đâu. Nhưng trong ca khúc mà cũng là một đời người từ thuở là mầm non chớm nở đến khi trở thành lá úa, ông còn diễn tả nhiều điều khác nữa. Nổi bật trong đó là chữ nhân, hay tinh thần nhân ái là chữ mà ông dùng. Chúng ta sinh ra là từ lòng người với tiếng khóc và nụ cười, với thương yêu và hận thù lẫn đắm say. Nhưng chân lý muôn đời là trưa hôm qua có thể còn là người, đêm hôm sau thì đã thác, có khi là vị thần hoặc một lũ ma lẻ loi....

Chữ sinh và hủy chỉ là hai mặt của cuộc đời và ai ai cũng như vậy. Nhưng, nội dung mang tính chất thánh ca của tác phẩm nằm trong thông điệp chìm ẩn bên dưới: sự bất diệt trong vòng tử sinh đó là chữ nhân. Nếu sinh ra và sống mãi với lòng nhân thì chẳng ai nên sợ cái chết. Cuộc hành trình của đời người mang ý nghĩa thăng hoa của một mùa Xuân khi nó được hướng dẫn bởi lòng tử tế.

Khi liên lạc với chú Phạm Duy - người viết vẫn gọi ông như vậy với sự tôn kính - về bài Xuân Hành, tôi đã lẩm nhẩm hát lại và ngẫm lại rồi nghĩ đến một thông điệp tôn giáo.

Đó là lẽ tử sinh của luân hồi, là ngũ uẩn gồm có sắc-thọ-tưởng-hành-thức. Nhờ sự suy ngẫm đó mình tìm ra một chữ "hành" trong kinh sách nhà Phật. Đấy là ý khác của "hành" trong bài Xuân Hành. Rất đơn giản thì hành động tốt sẽ tạo ra thiện nghiệp để có ngày vượt khỏi lẽ tử sinh. Phải chăng, câu "Đường nhân ái còn đi mãi mãi" của ca khúc nói về một cách sống bất tử? Nếu quả như vậy thì thông điệp này còn sâu xa hơn lời ca trong bài "Đường Chiều Lá Rụng" của Phạm Duy....

Quỳnh Giao

Tuesday, January 17, 2017

Chúc Xuân - Thanh Sơn


Chuc-xuan-01_zpsecfyvpvs.jpg

Chuc-xuan-02_zpsou4zzl9v.jpg

Chuc-xuan-03_zpsuzlcycaz.jpg

Chuc-xuan-04_zps7re6gltc.jpg


Mời đọc thêm:
Tiểu sử nhạc sĩ Thanh Sơn

Về tới đầu làng con chim sáo nhỏ hát vang rộn ràng Qua nhịp cầu tre, qua mấy con đê thắm đượm tình quê Bao năm qua cách trở đường xa xuôi ngược bôn ba

Ôi kỷ niệm yêu, mái tranh nghèo tỏa khói lam chiều ….

Nói về ông, người ta nghĩ ngay đến những ca khúc viết về đề tài mùa hè – học sinh rất đặc trưng như “Nỗi buồn hoa phượng”, “Lưu bút ngày xanh” đã làm xao xuyến bao thế hệ học sinh ở miền Nam trước 1975.

Nhạc sĩ Thanh Sơn tên thiệt là Lê Văn Thiện, sanh năm 1938, gia đình có tới 12 anh chị em, Lê Văn Thiện là người con thứ 10. Tuổi thơ của ông rất cơ cực và phải theo gia đình dọn nhà di chuyển nhiều tỉnh. Thuở nhỏ theo học trường Nam Tiểu Học Sóc Trăng, rồi trung học Phụ Huynh Học Sinh – sau đổi tên là Hoàng Diệu, Sóc Trăng. Anh vốn mê ca hát, và có cơ duyên học nhạc với thầy nhạc Võ Ðức Phấn (có vợ Sóc Trăng), em út của nhạc sĩ Võ Ðức Thu.

Vì có máu mê ca hát, và vì gia đình nghèo mà nghiệp sách đèn của Lê Văn Thiện không tới nơi tới chốn: Trợt vỏ chuối hai lần thi trung học đệ nhứt cấp. Năm 1955, thầy Phấn dạy nhạc qua đời, Thiện bỏ Sóc Trăng lên Sài Gòn kiếm sống, và theo học lớp nhạc của nhạc sĩ Lê Thương. Công việc của ông thời đó là chép và kẻ khung nhạc.

Tại đất Sài Gòn hoa lệ, Lê Văn Thiện sống bằng nghề làm gia nhân cho ông chủ là giám đốc công ty Dầu Lửa Quốc Gia với đồng lương lúc đó là 150 đồng/tháng, và duyên cũng đưa đẩy anh đến với nhạc sĩ Lam Phương, người mà anh coi như thần tượng của mình.

Năm 1959 khi đài phát thanh Sài Gòn ra thông cáo tuyển lựa ca sĩ, Lê Văn Thiện ghi tên tham dự với bài hát Chiều Tàn của nhạc sĩ Lam Phương. Thí sinh Lê Văn Thiện sinh ngày 1-5-1938 quê quán Sóc Trăng, nghệ danh Thanh Sơn, đoạt giải nhứt. Lê Văn Thiện nhớ mãi giải thưởng anh nhận được là một chiếc radio và cây đàn guitare. Ban giám khảo gồm các nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Võ Ðức Thu, Nghiêm Phú Phi. Chánh chủ khảo là nhạc sĩ Thẩm Oánh.

Từ đó, Thanh Sơn dấn thân vào nghiệp ca sĩ, khởi đầu đi hát trong ban nhạc Tiếng tơ đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng và hát cho đài phát thanh Sài Gòn.

Người thầy dẫn dắt anh là nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, bấy giờ Hoàng Thi Thơ là trưởng Ðoàn Văn Nghệ Việt Nam. Năm 1962 Thanh Sơn cho ra bài Lưu Bút Ngày Xanh, được công chúng hoan nghênh.

Năm sau, năm 1963, Thanh Sơn bỏ hẳn nghiệp ca hát để chuyển sang sáng tác chuyên nghiệp. Riêng về bài hát học trò, tới nay anh đã viết có hơn 200 bài. Với Thanh Sơn, đó là thời gian rất đẹp. Thanh Sơn viết về học trò như viết cho chính mình, viết để nuối tiếc thời thơ ấu, vì nhà nghèo phải bỏ học! Nổi tiếng nhất trong đề tài áo trắng của ông là các ca khúc: Tình Học Sinh, Ba Tháng Tạ Từ, Lưu Bút Ngày Xanh, Hạ Buồn và nhứt là Nỗi Buồn Hoa Phượng.

Thanh Sơn đã viết khoảng gần 500 bài với rất nhiều bài nổi tiếng. Nhạc của ông mang đậm nét miền Nam, chứa đựng trong đó đầy tình yêu và tâm huyết với quê hương, với kỷ niệm học đường. Gia tài ca khúc của Thanh Sơn – hơn 500 bài hát, 2/3 trong đó là những ca khúc viết về quê hương, về con người Sông Tiền Sông Hậu. Những tác phẩm của Thanh Sơn đã góp phần quan trọng cho nền âm nhạc Việt Nam.

Kể về cuộc tình thật đẹp làm nên chất liệu da diết cho ca khúc Nỗi Buồn Hoa Phượng, Thanh Sơn nói: “Tôi tìm thấy cảm xúc bởi sắc màu đỏ thắm của hoa phượng mỗi khi hè về. Bài hát này tôi viết về một cuộc tình học sinh rất đẹp. Lời chia tay của cô bạn gái cùng trường đã khiến tôi xao xuyến, bâng khuâng. Dường như màu hoa phượng như những giọt máu đỏ tươi minh chứng một cuộc tình chung thủy”.

Lời ca của Thanh Sơn: “Mỗi năm đến Hè lòng man mác buồn, chín mươi ngày qua chứa chan tình thương. Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi, phút gần gũi nhau mất rồi, tạ từ là hết người ơi”; Cũng như lời ca của Anh Việt Thu “Dòng An Giang sông sâu nước biếc, dòng An Giang cây xanh lá thắm, lả lướt về qua Thất Sơn… Dòng An Giang đáy nước in sâu, nhịp cầu tre ngắm bóng say sưa, nắng vẫn chiếu trên làn nước nhấp nhô… Ðây những người thôn nữ xinh duyên dáng chuyền tay dắt nhau múc mấy vầng trăng đổ đi…”; Và như lời ca của Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào, lời mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào. Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng, mẹ yêu…”.

Lời ca và giai điệu đơn sơ, chơn thật của bài Nỗi Buồn Hoa Phượng khác nào bài Dòng An Giang, bài Lòng Mẹ cho đến bây giờ vẫn làm hàng triệu trái tim người Việt Nam chúng ta xao xuyến… và không gì thay thế được.

Sunday, January 15, 2017

MÙA XUÂN TÂY TẠNG VÀ CÂU CHUYỆN NHỮNG DÒNG SÔNG - Ngô Thế Vinh

Đức Dalai Lama và Cực Thứ Ba của Trái Đất. nguồn:activeremedy.org

If Tibet dries, Asia dies. Nghĩa là: Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết
CỰC THỨ BA CỦA TRÁI ĐẤT
Khoảng ba trăm triệu năm trước, Tây Tạng còn nằm dưới đáy biển Tethys nguyên là một đại dương mênh mông bao trùm cả diện tích Châu Á và Ấn Độ. Do hành trình va chạm dữ dội của hai khối tiền lục địa Gondwanaland và Laurasia tạo nên cơn địa chấn với sức ép khổng lồ từ khối đất Ấn Độ dồn lên phía bắc tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng. 
Với lịch sử địa chất ấy, Tây Tạng là vùng đất cao từ 3500 tới 5000 m – được mệnh danh là “xứ tuyết”, “nóc của trái đất”, hay “Cực Thứ Ba / Third Pole” — hai cực kia là Bắc Cực và Nam Cực. Tây Tạng với diện tích hơn một triệu km2 gần bằng Tây Âu nhưng cô lập với thế giới bên ngoài bởi ba bề núi non hiểm trở: phía nam là dãy Hy Mã Lạp Sơn, phía tây là rặng Karakoram, phía bắc là các rặng Kunlun và Tangla; riêng phía đông cũng bị cắt khoảng bởi các dãy núi không cao và lũng sâu và thoải dần xuống tới biên giới Trung Hoa, ráp gianh với hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
Phía tây bắc, Tây Tạng là một vùng đất hoang đông giá, gần như không người no-man’s-land trải dài hơn 1200 km từ tây sang đông. Phía nam là vùng núi non với thảo nguyên, nơi sống của dân du mục với các đàn cừu dê và những con bò Yaks.  Phía đông là tỉnh Kham và đông bắc là tỉnh Amdo (quê hương của Đức Dalai Lama thứ 14) là vùng trù phú và đông dân nhất. Thứ đến là vùng đất phía nam khí hậu bớt khắc nghiệt, nơi có con Sông Yarlung Tsangpo với những phụ lưu như một mạch sống.
Người nông dân Tây Tạng chủ yếu trồng lúa mạch và khoai tây là hoa màu phụ. Khí hậu thay đổi thất thường như mưa đá, đông giá nên mùa màng luôn luôn bị hư hại. Nguồn thực phẩm ổn định hơn là nuôi gia súc ngoài đàn bò Yaks còn có trừu, dê và gà để lấy trứng. Tsampa làm từ bột lúa mạch sấy là món ăn thường nhật của người Tây Tạng. Quốc gia Tây Tạng là hình ảnh mênh mông của những thảo nguyên với núi cao và lũng sâu, bầu trời thường thì trong xanh như ngọc. Cho tới cuối thế kỷ 19, nếp sống của họ vẫn vậy như từ hàng ngàn năm trước.
XỨ SỞ CỦA ĐẠO PHẬT
Đạo Phật du nhập vào Tây Tạng 12 thế kỷ sau khi Phật Thích Ca nhập niết bàn, khoảng thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Khí Tông Cương Tán (Songtsen Gampo) là một tù trưởng tài ba đã thống nhất được các bộ lạc trên cả một vùng băng tuyết tới chân Hy Mã Lạp Sơn; ông cưới công chúa Nepal làm hoàng hậu và chính nàng công chúa này đã du nhập đạo Phật vào Tây Tạng. Tây Tạng thời kỳ ấy là một quốc gia hùng mạnh khiến vua Trung Hoa đời Nhà Đường cũng phải xin cầu hòa và gả công chúa cho Khí Công Cương Tán, nàng công chúa gốc Hán này cũng đem đạo Phật vào Tây Tạng. Đạo Phật từ đó đã phát triển rất mạnh trên vùng đất mới, hòa nhập với tín ngưỡng Bon đa thần để biến thể thành một thứ đạo Phật cao siêu và thần bí.
Tới thế kỷ 14 một vị chân tu tên Tống Cáp Ba – Tsongkhapa đã sáng lập nên phái Hoàng Mão Hoàng Y của Phật giáo chính thống Tây Tạng. Sau khi ông mất, người kế thừa cũng là một vị chân tu tên Gendun Drup được toàn thể giới tăng lữ suy tôn làm Dalai Lama (Lama là một từ Tây Tạng có nghĩa là bậc thầy), ông có công phát huy đạo Phật đồng thời cũng xây dựng được một nền hành chánh kết hợp với giáo quyền trị vì quốc gia Tây Tạng. Vị đại sư mưu trí này đã đặt ra quy luật tái sanh của Dalai Lama theo đó khi chết linh hồn vị Dalai Lama sẽ nhập vào một trẻ sơ sinh như hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm – Bodhisatva  Avalokitesara.
Tới thế kỷ 16, do các giáo phái lại chống đối nhau dẫn tới sự can thiệp của quân Mông Cổ, sau đó thì chính Đại Hãn Mông Cổ là Altan Khan do cảm phục kiến thức cao sâu của vị đại sư nên cũng xin quy y, đồng thời phong tước cho vị Lama là Dalai Lama – Dalai là từ Mông Cổ có nghĩa biển cả, bao hàm kiến thức mênh mông.
Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Tây Tạng ghi dấu bằng công trình xây cất Lâu Đài Mùa Đông – Cung Điện Potala 1000 phòng của các vị Dalai Lama, được coi như một kỳ quan kiến trúc của thế giới.
Nhưng về phương diện lịch sử thì ngôi Chùa Jokhang mới là di tích cổ kính nhất, được xây dưới triều vua Khí Tông Cương Tán, nơi chứa tượng Phật do công chúa Nepal thỉnh về. Kỳ quan của Jokhang không phải chỉ là các tượng Phật mà là tấm bia đá dựng trước chùa như di tích lịch sử về một quá khứ hùng mạnh của quốc gia Tây Tạng, đã từng gây khốn đốn cho các vua Trung Hoa đời nhà Đường. Trên tấm bia là bản hiệp ước được phê chuẩn bởi Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 khắc bằng hai thứ tiếng Tây Tạng và Trung Hoa với nội dung [Hình 2]:
“Thỏa thuận cùng nhau về sự liên minh giữa hai quốc gia… tìm cách ngăn ngừa những nguyên nhân gây tàn hại cho hai xứ sở bây giờ và mai sau, để mang lại hòa bình lâu dài cho thần dân hai nước. Thỏa ước được khắc trên bia này để cho các thế hệ tương lai được biết tới.” (1)
 
Hình 2: Jokhang, ngôi chùa có lịch sử hơn 1,300 năm ghi dấu một thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng. Tấm bia ghi bản hiệp ước giữa Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 đã bị phá huỷ. Jokhang, cùng với lâu đài Potala được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Thế giới. 

Giữa thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng [618-907] nơi đầu nguồn Sông Mekong thì lúc ấy Việt Nam lại đang phải sống trong tối tăm nhục nhã dưới ách thống trị của người Tàu với cái tên An Nam Đô Hộ Phủ. Việt Nam đã bị nô lệ Tàu tổng cộng 1050 năm trước khi lấy lại được nền tự chủ với các triều đại Ngô, Lê, Lý, Trần.
Nhưng rồi cũng không tránh được lẽ thịnh suy, những thế kỷ sau đó Tây Tạng lại bị Trung Hoa xâm lấn, thủ đô Lhasa thường xuyên bị chiếm đóng. Đến đầu thế kỷ 20, nhân lúc triều đình Mãn Thanh bị cuộc Cách Mạng Tân Hợi của Tôn Dật Tiên lật đổ, nhân dân Tây Tạng đã lại vùng lên và tuyên bố độc lập nhưng bị đàn áp và đã gặp phải sự thờ ơ đến tàn nhẫn của thế giới. Trung Hoa cho dù dưới thể chế chánh trị nào vẫn xem Tây Tạng như phần lãnh thổ của họ.
MỘT TÂY TẠNG ĐAU THƯƠNG
Năm 1933 khi vị Dalai Lama 13 viên tịch, tương truyền rằng người ta thấy mặt ngài ngoảnh về hướng đông bắc, phía tỉnh Amdo. Kết hợp với một số điềm báo triệu khác, các vị trong hội đồng giáo phẩm tới được ngôi làng Takster tỉnh Amdo và họ đã tìm ra đứa trẻ hai tuổi là đứa con thứ tư trong một gia đình nông dân nghèo khó, và sau một chuỗi những trắc nghiệm thử thách, cậu bé Tenzin Gyatso sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935, được công nhận là hiện thân của Đức Dalai Lama thứ 14.
Amdo lúc đó đang thuộc quyền kiểm soát của quân Trung Quốc nên phải trải qua hai năm thương thuyết khó khăn, cậu bé Tenzin Gyatso mới được rời Amdo lên thủ đô Lhasa và được đưa vào Cung Điện Mùa Hè Norbulingka rồi Cung Điện Mùa Đông Potala để được nuôi dưỡng và giáo dục đúng theo giáo lý bởi những vị cao tăng uyên bác. Trong thời gian đó, một quan nhiếp chính được chỉ định để lo việc nước.
Tình hình càng trở nên tệ hại khi Tưởng Giới Thạch bị thua phải chạy ra đảo Đài Loan (1949), Hồng Quân chiếm trọn Hoa Lục đồng thời cũng xua quân vào cưỡng chiếm Tây Tạng với chiêu bài “giải phóng nhân dân Tây Tạng đang bị giai cấp phong kiến áp bức.”
Và đã có ngay từng đợt hàng trăm ngàn binh lính Trung Cộng tiến vào Tây Tạng, kéo theo sau là gia đình của họ. Khác xa với hứa hẹn ban đầu bảo đảm tự do tín ngưỡng và phong tục tập quán của dân Tây Tạng, họ mở ngay chiến dịch chống tôn giáo, đồng thời thi hành “chánh sách tàm thực/ tầm ăn dâu” không ngừng di dân gốc Hán vào đất nước Tây Tạng.
Năm 1950, do nhu cầu cấp bách của thời cuộc, ở cái tuổi mới 16, Tenzin Gyatso đã phải rất sớm đứng ra đảm đương mọi trách nhiệm chánh trị điều hành quốc gia Tây Tạng.  Năm 1954, Gyatso bị đưa sang Trung Quốc gặp Mao Trạch Đông trong ý muốn thuyết phục vị Dalai Lama trẻ tuổi ấy chấp nhận một xứ sở Tây Tạng sát nhập vào trật tự nước Trung Hoa.
Trước nguy cơ diệt vong, năm 1959 nhân dân Tây Tạng lại nhất loạt nổi dậy, nhưng đã bị Hồng Quân trấn áp và tàn sát không thương tiếc. Trong cuốn tự truyện Tự Do Trong Lưu Đầy – Freedom in Exile, Tenzin Gyatso viết:
“Trong gần một thập niên, ở cương vị người lãnh đạo chánh trị và tôn giáo cho dân tộc Tây Tạng, tôi đã cố gắng tái tạo mối liên hệ hòa bình giữa hai quốc gia Tây Tạng và Trung Hoa, nhưng trách vụ ấy không thể hoàn thành. Tôi đi tới kết luận là tôi sẽ phục vụ dân tộc tôi được nhiều hơn nếu tôi sống ở nước ngoài.” (1)
Đức Dalai Lama thứ 14 đã dẫn hơn một trăm ngàn dân Tây Tạng vượt biên giới thoát sang Ấn Độ. Bất chấp sự chống đối và cả hăm dọa của Bắc Kinh, chánh phủ Ấn vẫn giúp định cư số người Tây Tạng lưu vong này nơi thị trấn Dharmasala dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn. Một chánh phủ lưu vong Kashag được hình thành như niềm hy vọng sống còn đối với người dân Tây Tạng trong nước.
Phía Trung Quốc bất kể nguyện vọng dân Tây Tạng ra sao, họ vẫn sát nhập quốc gia này vào “Nước mẹ vĩ đại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.” Tháng 9 năm 1965, Bắc Kinh tuyên bố lập “Vùng tự trị Tây Tạng – Tibetan Autonomous Region” trực thuộc nước Trung Hoa. Điều ấy có nghĩa là quốc gia Tây Tạng bị Bắc Kinh xoá tên trên bản đồ thế giới.
Và rồi các giai đoạn thảm khốc nhất đã diễn ra trong suốt thập niên sau đó khi có cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Cả một di sản văn hóa của dân tộc Tây Tạng bị tận diệt một cách công khai và có hệ thống bởi những đoàn Vệ Binh Đỏ. Các đền đài tu viện bị phá trụi, các tranh tượng tôn giáo bị hủy hoại. Hàng chục ngàn người Tây Tạng bị kết tội “phản động” vì không chịu lên án Đức Dalai Lama và từ bỏ đức tin của họ.  
Theo thống kê của Trung Cộng (1982) có 3.87 triệu người Tây Tạng, nếp sống đơn sơ và hiếu khách nhưng họ là một dân tộc đang phải sống trong nô lệ và chịu nỗi khổ đau vô hạn “trong nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.

Hình 3: Uống nước nhớ nguồn. Ngay sau cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Tạng 1959 bị Bắc Kinh đàn áp đẫm máu khiến Đức Dalai Lama và hơn 100,000 người Tây Tạng phải tỵ nạn sang Ấn Độ. Việt Nam Cộng Hoà lúc ấy đã tức thời gửi lúa gạo sang cứu trợ. Lúa gạo ấy đã được gieo trồng từ nguồn nước con Sông Mekong. Đức Dalai Lama đã tiếp Phái đoàn Việt Nam tại Darjeeling, Ấn Độ. Từ trái: Gs Lê Xuân Khoa Tổng thư ký Hội Văn hoá Á Châu, Thượng toạ Thích Trí Dũng, Đức Dalai Lama, và Phó Chủ tịch Quốc Hội VNCH Cổ Văn Hai. (4)

Tháng 10 năm 1987, không còn kiên nhẫn hơn được nữa, dân Tây Tạng lại vùng dậy và cũng lại bị quân chiếm đóng Trung Cộng đàn áp tàn bạo. Đã có khoảng 1.2 triệu người Tây Tạng bị giết, một con số thật khủng khiếp nếu so với tổng số dân Tây Tạng chưa tới 4 triệu.
Để phối hợp với các cuộc đấu tranh ở trong nước, Đức Dalai Lama đã rời Dharmasala và du hành qua nhiều quốc gia trên thế giới để nói lên nguyện vọng được sống trong độc lập và tự do của nhân dân Tây Tạng.
Tenzin Gyatso chỉ nhận mình là một nhà sư giản dị, không bao giờ tự huyền thoại hóa mình là Phật Sống. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, vẫn luôn luôn là một con người nhu hòa không định kiến, vượt lên trên mọi khen chê. Ông là một con người giàu lòng từ bi, hơn thế nữa là con người của tự do. Với tinh thần bất bạo động linh hoạt – active non-violence, ông luôn luôn cố gắng tái tạo mối liên hệ tin cậy và hòa bình với phía thù nghịch cho dù Bắc Kinh không từ một thủ đoạn nào để gây tai tiếng và bôi nhọ ông.

Hình 4: Jampa Yeshi, tên người thanh niên Tây Tạng đang chạy như một ngọn đuốc trên một đường phố New Dehi 26.3.2012 đòi tự do cho nhân dân Tây Tạng. Từ 2009 tới 2016, đã có 153 nhà sư và thường dân Tây Tạng tự thiêu phản kháng sự chiếm đóng của Trung Quốc. Nguồn: AP, photo by Manish Swarup

 Cho dù gần đây Trung Cộng cho xây dựng lại một số chùa chiền ở Tây Tạng bề ngoài như một “sửa sai sau Cách Mạng Văn Hóa” nhưng chỉ là để phát triển kỹ nghệ du lịch; cùng một lúc họ cho gài công an chìm vào khắp các tu viện, đi xa hơn nữa Bắc Kinh còn cấm người trẻ đi tu và đồng thời cưỡng bách các vị sư già ngoài 60 tuổi phải về hưu trong khi vẫn không ngừng rêu rao “Tự do tôn giáo là điều được ghi trong hiến pháp”.
Nếu chỉ viếng thăm Tây Tạng “như một khách du lịch” và đi theo đoàn du khách với cô hướng dẫn người gốc Hán thì mọi sự đều rất êm thấm, cũng như một số khách Tây Phương – kể cả chánh trị gia lão thành Edward Heath cựu thủ tướng Anh, được Bắc Kinh tổ chức cho đi thăm Tây Tạng, khi trở về nói mọi chuyện ở đó đều tốt đẹp. Họ nói thật qua những điều dàn dựng và được phép cho thấy. Và bao giờ cũng vậy, những điều cho thấy ấy là một sự dối trá trắng trợn.
TÂY TẠNG VÀ BÀI HỌC AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ
Trong khoảng hơn 20 năm từ 1995, kể từ khi có mối quan tâm về con Sông Mekong dài hơn 4,800 km ấy, về phương diện địa dư chính trị/ geopolitics, người viết luôn luôn xem Tây Tạng như một quốc gia, và con Sông Mekong chảy qua 7 quốc gia – thay vì 6. Nếu không kể Tây Tạng như một quốc gia đầu nguồn, một cách vô thức, cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên hợp thức hoá dã tâm của Bắc Kinh muốn xoá Tây Tạng trên bản đồ thế giới.
Trong buổi lễ trao Giải thưởng Nhân quyền Robert F. Kennedy ngày 9 tháng 11 năm 1998 tại Đại Học Georgetown, Đức Dalai Lama tỏ ý ao ước được viếng thăm Việt Nam năm 2000. Điều đặc biệt hơn nữa là Đức Dalai Lama còn có đề nghị với các học giả Việt Nam hãy cung cấp cho các nhà sử học Tây Tạng những sử liệu liên quan tới mối quan hệ giữa Việt Nam – Trung Hoa và Việt Nam – Tây Tạng.  
Và ai cũng hiểu rằng Đức Dalai Lama muốn nhân dân Tây Tạng tìm đến “Bài học Việt Nam”, làm thế nào dân tộc Việt vẫn lấy lại được nền tự chủ sau cả ngàn năm đã bị người Tàu đô hộ và quyết tâm đồng hóa. Đó như một “thông điệp hy vọng” của những người dân Tây Tạng đang bị Trung Quốc áp bức như hiện nay. (4)
Nhưng cũng để thấy ngay một khác biệt sâu xa giữa hai quốc gia Việt Nam và Tây Tạng. Trong hơn một ngàn năm bị đô hộ ấy, Trung Hoa chưa có nạn nhân mãn, Việt Nam vẫn là xứ xa xôi còn bị coi là man di chưa xuống xa tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, chưa phải đối đầu với “chính sách tàm thực di dân Hán hóa”như thảm trạng hiện nay của Tây Tạng, khiến dân Tây Tạng đang mau chóng trở thành thiểu số trong biển người Hán ngay trên chính quê hương của họ. Với chiêu bài dân chủ nhân danh quyền tự quyết, nếu có một cuộc trưng cầu dân ý diễn ra trên đất nước Tây Tạng do Bắc Kinh chủ xướng, thì đó là một “cuộc tự sát” mà không một người dân Tây Tạng nào có thể ngây thơ chấp nhận.   
Đã 16 năm kể từ năm 2000, Đức Dalai Lama năm nay cũng đã hơn 81 tuổi, và không có cuộc viếng thăm nào của Đức Dalai Lama tới Việt Nam. Chấp nhận hay không cuộc viếng thăm ấy là một thử thách can đảm đối với nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội. Đó cũng là thước đo mức tự chủ của Việt Nam đối với Trung Quốc.
TÂY TẠNG MẠCH SỐNG CỦA CHÂU Á
Các con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng. (2)
Phía tây, gần rặng núi Kailash là hai con Sông Indus và Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi.
Phía nam là con Sông Yarlung Tsangpo hay “nguồn tinh khiết” còn được mệnh danh là “con sông cao nhất thế giới”, với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và Bangladesh, con sông mang tên Brahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, thuộc Ấn Độ Dương.
Phía đông là khởi nguồn của các con sông lớn khác: Sông Dương Tử 6,500 km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải, còn Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi sang đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa. 
Phía nam là hai con Sông Irrawaddy và Salween chảy xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman, những con đập thuỷ điện Made-in China nay đang bắt đầu xiềng xích và huỷ hoại hệ sinh thái của hai con sông Miến Điện này.

Hình 5: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, Palgrave MacMillan 2014

Riêng con Sông Mekong dài hơn 4,800 km, mang nhiều tên khác nhau, bắt nguồn từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá,” tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lancang Jiang “con sông xanh cuộn sóng,” qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ,” xuống Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn” cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long “chín con rồng” với hai nhánh chính là Sông Tiền và Sông Hậu đổ ra Biển Đông bằng chín cửa sông, và nay chỉ còn bảy.
Cũng để thấy một con Sông Mekong hoang dã không còn nữa khi 6 con đập dòng chính khổng lồ Vân Nam đã hoàn tất, và 12 con đập hạ lưu Lào và Cam Bốt đang lần lượt được triển khai, cùng với những kế hoạch thuỷ lợi nguy hiểm là chuyển dòng lấy nước trên suốt chiều dài con Sông Mekong. Hậu quả là sự suy thoái của toàn thể hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long thì khô hạn, nhiễm mặn và đang chết dần.
TIẾNG NÓI BẢO VỆ MÔI SINH
Đức Dalai Lama không chỉ là vị lãnh đạo tinh thần của dân Tây Tạng, ông còn là tiếng nói của “từ tâm” luôn luôn đấu tranh cho nhân quyền và bảo vệ môi sinh cho toàn hành tinh này.
Với quốc gia Tây Tạng, Đức Dalai Lama đã giành ưu tiên cho bảo vệ môi sinh thay vì thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng.
“Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5 – 10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi.”
Đức Dalai Lama đã nói với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy Roemer như vậy trong một gặp gỡ ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8, 2009. Nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10-8-2009
Từ trên đầu nguồn, những con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc phá huỷ một cách toàn diện và có hệ thống: với khí thải từ các nhà máy gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết đang tan rã, rồi nạn phá rừng tự sát / suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, tàn phá sinh cảnh, gây ô nhiễm các nguồn nước; những con sông trên Cao nguyên Tây Tạng cũng đang bị Trung Quốc xiềng xích bởi những con đập thuỷ điện và người dân Tây Tạng thì bị đuổi ra khỏi vùng đất đang sinh sống của họ.

Hình 6: Hâm Nóng Toàn Cầu trên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, MacMillan 2014

Hoa Lục xác nhận là sẽ xây các con đập lớn trên thượng nguồn Sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông ấy chảy sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu cư dân của 3 quốc gia này.
Giới chức Hoa Lục cho biết họ sẽ còn xây thêm những con đập khác giữa các quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Nguồn năng lượng mới này tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ lượng dầu khí trên Biển Đông. Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn Thủy điện Trung Quốc (China Hydropower Engineering Consulting Group) nhận định: “Tây Tạng là nguồn dự trữ thủy điện lớn nhất so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Chuyển điện từ Tây Tạng sang các tỉnh miền Đông sẽ giải quyết vấn đề thiếu năng lượng của Trung Quốc”.
Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho rằng kế hoạch xây đập tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc — thực ra là trong lãnh thổ quốc gia Tây Tạng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác hại tới mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên so sánh:
 “Ấn Độ bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Tsangpo- Brahmaputra, cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn Sông Lancang – Mekong”.

Hình 7: Cứu Tây Tạng là cứu mạch sống Châu Á. Nguồn: International Campaign for Tibet

Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương nhưng Đức Dalai Lama cũng rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại. Ông đề cập tới vấn đề môi sinh với một tầm nhìn xa và trong mối tương quan toàn cầu và luôn luôn muốn “giữ xanh” hành tinh này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [06.05.1986]:
“Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này… Chúng ta dễ dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau.”
NGÔ THẾ VINH
California, ngày 11.01.2017
_____
Tham khảo:
1/ Freedom in Exile; The Autobiography of The Dalai Lama. Tenzin Gyatso, Hodder & Stoughton Ltd, London, 1990.
2/ Meltdown in Tibet: China’s Reckless Destruction of Ecosystems from the Highlands of Tibet to the Deltas of Asia. Michael Buckley. Palgrave MacMillan, New York, 2014   
3/ Global Ecology and the Made in China Dams; Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 2010; http://vietecology.org/Article.aspx/Article/62
4/ The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea in Turmoil. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Press, Người Việt Books, Nxb Giấy Vụn 2016.










 

Wednesday, January 11, 2017

“Mặt trời chất chứa trong lòng trái khổ qua – Thích Nhất Hạnh



Trái khổ qua là một gói quà tết; và nếu mở ra, anh sẽ thấy gì? Thấy có mặt trời trong đó. Ngộ không? Nếu không có mặt trời chiếu hồi tháng sáu, tháng bảy, tháng tám, thì làm sao mình có trái khổ qua cất ở trong tủ đá của mình! Ở tại Làng Mai có khi trồng khổ qua ăn không hết, những trái khổ qua được bỏ vào tủ đá. Đến tháng mười hai, khi lạnh buốt, mình có thể đem ra một trái làm khổ qua hầm. Đây là chuyện đời sống hàng ngày chứ không phải là chuyện thơ thẩn gì hết. Mùa Đông ở bên này mặt trời không biết đi đâu? Nhìn lên là không thấy mặt trời, nhìn ngang nhìn ngửa cũng không thấy mặt trời, ta chỉ thấy một màu xám xịt từ ngày này tới ngày khác. Vậy mà xẻ trái khổ qua ra thấy mặt trời nằm trong đó!
Mặt trời chất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
Trong khi bên ngoài gió hú.”

THƠ TỪNG ÔM VÀ MẶT TRỜI TỪNG HẠT
Thích Nhất Hạnh

Nắng trên không gian và thơ trên nắng
Thơ làm ra nắng nắng ra thơ
Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
trong khi bên ngoài gió hú

Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ
Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông
Thơ nơi từng giọt mưa Xuân
Thơ trong từng đốm lửa hồng
Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm

Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử
Nắng vắng trong hư không, nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ
Nắng lên thành mầu Khói, thơ đọng thành mầu Sương
Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân
Giọt nước cúi xuống hôn Đất, cho hạt cây nẩy Mầm

Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt Lá
Nắng thành mầu Xanh, thơ mầu Hồng
Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật
Tưng bừng, xôn xao, bướm ong về chật đất

Nắng làm nên khúc Múa, thơ làm nên lời Ca
Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở
Nắng rụng bên Sông, bóng Chiều ngập ngừng bỡ ngỡ
Thơ đi về chân trời, nơi vầng Sáng đang đắp chân mây

Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong mầu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú
Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm

Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.

Thơ đối với tôi là một cái gì rất đẹp, không phải chỉ để tiêu khiển mà còn là chất liệu nuôi dưỡng. Thơ là không khí cho mình thở, thơ là nắng cho hoa nở, thơ là trái đào tiên tháng tám, thơ là những bước chân mình đang đi. Thơ rất cụ thể và liên đới tương quan với mọi sự, mọi vật.
Trong bài Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt có hình ảnh của một mái tranh nghèo đang đứng đợi ở ven sông. Đất nước Việt Nam ngày xưa nghèo lắm, những hình ảnh như là: quê hương tôi nước mặn đồng chua, những mái tranh nghèo đang đứng đợi bên sông. Những hình ảnh đó có thể mai này không còn nữa, nhưng trong thế hệ của tôi nó là một hình ảnh rất bền bỉ. Hình ảnh của một người nông dân cầm liềm, hay vác cuốc trên vai, cày cuốc mồ hôi nhỏ xuống mảnh đất khô cằn, v.v… Những hình ảnh đó còn mãi trong thế hệ chúng tôi. Bây giờ chúng ta có hình ảnh những chiếc máy cày, những nông trại rộng lớn. Nông dân bây giờ có nhiều người sử dụng máy vi tính, làm ra rất nhiều tiền. Những hình ảnh trong bài thơ này là những hình ảnh thi ca, thi vị nhưng có thể không còn thích hợp nữa.
Nắng trên không gian và thơ trên nắng
Thơ làm ra nắng, nắng ra thơ

Ở Làng Mai vào tháng tư, mình thấy nắng ấm, trời xanh. Nếu mình đi tìm thơ, thì thơ đó nằm trong nắng và trong trời xanh. Thơ đó, nắng đó và trời xanh đó nuôi mình sau những tháng Đông lạnh lẽo buốt giá. Mình đi thiền hành ở Xóm Thượng, Xóm Mới, hoặc Xóm Hạ, mình tiếp xúc với nắng, với trời xanh, và mình được nuôi dưỡng bởi những thứ ấy. Đó chính là thơ.
Thơ đây tức là sự sống, thơ đây tức là chánh niệm. Nếu có nắng mà không có thơ, nghĩa là: ta không biết rằng nắng có đó, thì nắng có cũng như không. Vì vậy cho nên thơ ở đây tức là ý thức sáng tỏ, là những chất liệu nuôi dưỡng thân tâm. Và nếu không có chánh niệm thì cũng không có gì hết: không có nắng, không có thơ mà cũng không có không gian. Cho nên tuy trong bài này không có danh từ chánh niệm, nhưng kỳ thực chánh niệm là gốc của tất cả mọi hạt nắng trên không gian. Nhờ cái gì mà mình biết rằng có nắng trên không gian? Nhờ cái tâm của mình, nhờ chánh niệm của mình cho nên mình biết rằng có không gian. Và nắng đang bay ở trên không gian – “nắng trên không gian”. Tại sao anh biết là có nắng trong không gian? Tại vì anh có cái biết.
“Thơ trên nắng”. Tôi không phải chỉ có ở đây, tôi ở cả trên kia. Ở bên Mỹ có một trường phái triết học phát sinh ra từ Princeton, họ nói “There is thinking in the blue sky” –có tâm của mình ở trong trời xanh. Không gian ở trên cao có ý thức của tôi ở đó. Nắng ở trên không gian, tâm tôi cũng ở đó. Tâm tôi không phải chỉ có trong ngực, trong cái thân này mà thôi. “Nắng trên không gian và thơ trên nắng”, ba cái chuyên chở nhau. “Thơ làm ra nắng, nắng ra thơ”. Nếu không có nắng thì làm sao có thơ? Nếu không có thơ thì làm sao có nắng? Đó là tương tức.
Mặt trời chất chứa trong lòng trái khổ qua.
Trái khổ qua là một gói quà tết; và nếu mở ra, anh sẽ thấy gì? Thấy có mặt trời trong đó. Ngộ không? Nếu không có mặt trời chiếu hồi tháng sáu, tháng bảy, tháng tám, thì làm sao mình có trái khổ qua cất ở trong tủ đá của mình! Ở tại Làng Mai có khi trồng khổ qua ăn không hết, những trái khổ qua được bỏ vào tủ đá. Đến tháng mười hai, khi lạnh buốt, mình có thể đem ra một trái làm khổ qua hầm. Đây là chuyện đời sống hàng ngày chứ không phải là chuyện thơ thẩn gì hết. Mùa Đông ở bên này mặt trời không biết đi đâu? Nhìn lên là không thấy mặt trời, nhìn ngang nhìn ngửa cũng không thấy mặt trời, ta chỉ thấy một màu xám xịt từ ngày này tới ngày khác. Vậy mà xẻ trái khổ qua ra thấy mặt trời nằm trong đó!
Mặt trời chất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
Trong khi bên ngoài gió hú.

Mùa Đông có canh khổ qua do mình nấu lấy. Khi nấu canh, khổ qua bốc mùi thơm lên, và trái khổ qua đó biến thành thơ, rồi hơi nóng của bát canh bốc lên cũng là thơ.
“Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa đông, trong khi bên ngoài gió hú”. Mùa đông ở Pháp là như vậy. Gió hú từng cơn. Hồi tôi làm bài thơ này, Làng Mai chưa có hệ thống sưởi trung ương, phòng nào may mắn thì có một cái lò sưởi củi.
Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông.
Quê hương không phải nằm ở phía bên kia, quê hương nằm ngay trong trái khổ qua. Khi ăn trái khổ qua thì nhớ ngay những hình ảnh quê hương ấy: Quê hương có chiến tranh, quê hương có nghèo đói, quê hương không có chủ quyền, quê hương bị áp bức. Trong bát canh, không phải chỉ có mặt trời, chỉ có không gian, chỉ có thơ… mà có luôn những điều như vậy. Mình chưa bao giờ lìa bỏ quê hương, dù là một năm, dù là bốn mươi năm.
Thơ nơi từng giọt mưa xuân
Thơ trong từng đốm lửa hồng

Nếu sống có chánh niệm, mình sẽ thấy tất cả đều mầu nhiệm. Một giọt mưa rơi xuống, chứa đựng cả thế giới tam thiên đại thiên, chứa đựng được tất cả quê hương.
Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm
Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử

Khúc gỗ thơm mà mình bỏ vào lò sưởi là nắng; nó chứa nắng trong lòng nó. Mặt trời mình nhìn lên không thấy, mặt trời không cho mình đủ sức ấm nhưng khúc củi bây giờ đây đại diện cho mặt trời, bỏ củi vào trong lò thì nó cho mình đủ sức ấm trong căn phòng nhỏ của mình. Tôi nhớ hồi viết quyển Đường Xưa Mây Trắng, trong phòng tôi chỉ có một cái lò sưởi củi và tôi hơ tay trái ở trên lò sưởi cho ấm còn tay phải thì tôi viết. Hạnh phúc chán. Ngồi viết được chừng ba bốn trang thì ngưng lại, đi nấu một bình trà. Ấm nước đặt trên lò sưởi đã sẵn ấm rồi, thành ra nấu trà rất mau. Mình phải thấy mặt trời ở trong khúc gỗ. Nếu không thấy thì làm sao mà có thơ được, làm sao mà có Đường Xưa Mây Trắng được! Một cái mình tưởng là không có mặt lại đang có mặt: Mặt trời mùa hè đang có mặt trong khúc gỗ thơm mà mình bỏ vào lò sưởi.
“Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm. Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử”. Khi đọc câu này tôi nhớ rằng bài thơ này được làm trong thời gian tôi viết cuốn Am mây ngủ. Am mây ngủ là một tác phẩm ngoại sử viết về đời của Trúc Lâm Thượng Sĩ và Công Chúa Huyền Trân. Vì là ngoại sử cho nên những chi tiết trong truyện được nghiên cứu rất kỹ, không phải do tưởng tượng mà viết ra. Nếu bây giờ chúng ta có cơ hội lấy Am mây ngủ ra đọc thì chúng ta sẽ thấy bát canh khổ qua, chúng ta sẽ thấy mặt trời cất chứa trong lòng gỗ thơm. Hồi đó, tôi xin nhắc lại, ở tại Làng Mai chưa có lò sưởi trung ương, chỉ có những cái lò sưởi củi mà thôi.
Nắng vắng trong hư không, nhưng nắng chứa đầy một lò sưởi đỏ
Gọi nó là hơi ấm, hay là nắng cũng được. Không những Khói phải viết hoa, Sương phải viết hoa mà cái gì cũng phải viết hoa hết mới được. Sự thực là như vậy. Tại vì tất cả đều là những cái hết sức mầu nhiệm, mầu nhiệm là như Bụt, như đức Quan Âm. Bụt cũng có trong đó, đức Quan Âm cũng có trong đó. Cái gì đánh động, làm cho người ta phải quán chiếu: “Khói là cái gì? Sương là gì?” thì cái ấy là chánh niệm, là Bụt, là Tổ, là hạnh phúc, là sự nuôi dưỡng. Đã biết bao nhiêu lần quý vị nấu cơm bằng củi, đã biết bao nhiêu lần quý vị chất củi vào trong lò sưởi, quý vị có ý thức không? Có thấy rằng những khúc củi đó chứa đựng mặt trời tháng tám không? Có khi nào quý vị vo gạo xong, đổ gạo, đổ nước vào trong nồi nấu cơm mà thấy được những gáo nước mình đổ vào nồi là do những đám mây ở trên trời cống hiến hay không? Sự khác nhau của người tu với người không tu ở chỗ đó. Khi mình đổ nước vào trong nồi nấu cơm mình phải biết rằng nước này là những đám mây. Mình dồn đám mây đó vào trong nồi cơm và khi cơm chín thì mình được nuôi nấng bởi những đám mây trên trời, bởi sức nóng của mặt trời nung nấu trên các cánh đồng đầy những bông lúa vàng rực. Và khi nấu cơm như vậy là mình tu. Khi mình nấu cơm như vậy thì mình là thi sĩ. Khi mình nấu cơm như vậy, là mình đang thiền. Quý vị đâu có cần tới chùa mới làm được chuyện đó. Ở nhà mình cũng có nấu cơm phải không? Sống cho thảnh thơi, sống cho vững chãi, sống dừng lại trong từng giây phút để nhìn cho kỹ. Có tâm của mình trong đó, có chánh niệm trong đó thì giây phút nào cũng mầu nhiệm. Sương cũng mầu nhiệm, khói cũng mầu nhiệm, trái khổ qua cũng mầu nhiệm, những hạt gạo bỏ vào nồi cũng mầu nhiệm, mà nước chế vào trong nồi để nấu cơm cũng mầu nhiệm. Hạnh phúc là ở chỗ đó, quý vị còn đi tìm hạnh phúc ở đâu nữa? Cứ đợi đến khi làm giám đốc hoặc làm pháp chủ rồi mới có hạnh phúc hay sao?
Nắng cất giữ trong từng hạt mưa xuân
Giọt mưa cúi xuống hôn Đất, cho hạt cây nẩy Mầm

Nếu không có nắng thì sức mấy mà có mưa. Nếu không có mưa thì sức mấy mà hạt cây nẩy mầm.
Chữ Đất cũng viết hoa, chữ Mầm cũng viết hoa. Mình phải vinh danh Đất, mình phải vinh danh cái Mầm hạt cây. Cái gì cũng quý giá vô cùng. Đây là tình yêu.
Thơ đi theo mưa về trên từng đọt lá
Mưa. Mưa xuân. Mỗi hạt mưa xuân là một bài thơ. Bài thơ này không phải là chuyện tình cảm vẩn vơ, đây là sự nuôi dưỡng. Không có những trận mưa xuân đó thì làm sao mình có hoa có trái, có cơm có gạo!
Thơ đi theo mưa về trên từng đọt lá
Nắng thành màu xanh, thơ màu hồng

Một nắm rau mồng tơi màu xanh hay một nắm rau tía tô màu tím, tất cả những cái đó đều là thơ. Khỏi phải ra nhà sách mua một tập thơ, cứ ra vườn đi: nhìn vào cái nào cũng thấy đó là thơ hết. “Lá tía tô gọi hạt mồng tơi”[2]. Hạt mồng tơi là thơ, lá tía tô cũng là thơ. Và bây giờ quý vị có thể hình dung thấy Thầy Nhất Hạnh đang đi thiền hành một mình từ Xóm Thượng xuống Sơn Hạ.
Nắng chở trên cánh ong tới trút ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống mật
Tưng bừng xôn xao, bướm ong về chật đất
Nắng làm nên khúc múa, thơ làm nên lời ca

Một con ong có thể chở đầy nắng trên cánh. Phải để ý mới được. Trong khi mình đi, mình đừng để cái tâm của mình đưa mình bay bổng lên hư không. Mình phải tiếp xúc với tất cả những mầu nhiệm của sự sống. “Nắng chở trên cánh Ong (chữ Ong viết hoa)tới trút ấm lên đài hoa” (Nó chở, nó giao hàng mà!). Ong chở nắng trên cánh nó và khi tới bông hoa thì nó giao hàng, nó trút nắng vào đài hoa.
Chữ Múa viết hoa, lời Ca cũng viết hoa. Đâu phải lát nữa mình mới làm văn nghệ hay là mồng Một Tết mình mới làm văn nghệ. Mình đi thiền hành, mình thấy ong, bướm, hoa làm văn nghệ. Xin đọc lại mấy câu này, mấy câu văn nghệ:
Nắng chở trên cánh ong tới trút ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống mật
Tưng bừng xôn xao, bướm ong về chật đất
Nắng làm nên khúc múa, thơ làm nên lời ca.
Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày

Nghèo thì nghèo thật đó, nhưng khi mình có thơ, có sự sống thì mình còn phong lưu, nhàn nhã, không bận rộn quá. Đi cũng đi thong thả thôi, đi cuốc ruộng mà. Ngày xưa ở chùa Từ Hiếu, tôi cũng có đi cuốc đất trồng khoai, trồng sắn, gánh nước, chặt củi. Tôi làm việc như vậy nhưng thanh thản lắm, đâu có bận rộn như các thầy bây giờ.
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở.
Đi từng bước có chánh niệm và thực tập hơi thở. Ngày xưa Tổ Bách Trượng cũng chấp tác ở ngoài vườn. Cố nhiên, trong khi vác cuốc Ngài cũng thở cũng mỉm cười và cũng đi từng bước chân thảnh thơi như vậy.
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở. Nắng rụng bên sông, bóng chiều ngập ngừng bỡ ngỡ Thơ đi về chân trời, nơi vầng sáng đang đắp chăn mây
Chữ chăn này có nghĩa là mền. “Vầng sáng đang đắp chăn mây” tức là mặt trời đắp mền ngủ rồi. Trong tập thơ Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt, nhà in đã in sai chữ “chăn mây” (cái mền mây) thành chữ “chân mây”. “Đắp chân mây” là đắp cái gì mình không hiểu được. “Thơ đi về chân trời, nơi vầng sáng đang đắp chăn mây”. Mặt trời mà còn biết đi ngủ, còn mình thì cứ làm việc “non stop”, không chịu đi ngủ. Có sẵn cái máy tính đó, mình cứ làm việc hoài.
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm, trong bát cơm gạo tám

Sư cô mới vừa đi hái rau về, sư chú vừa mới đi hái rau về. Đặt rổ rau xuống, cho tôi được nhìn coi! Đây là rau cải nè, đây là rau mồng tơi nè, đây là rau tía tô. Rau xanh rờn như vậy đó, nhưng rau cũng chính là mặt trời. Mặt trời không phải chỉ là màu đỏ mà thôi. Nếu anh nghĩ rằng mặt trời là màu đỏ thì anh lầm. Cái rổ rau này là mặt trời, và mình thấy một mặt trời rất xanh. Người nào thấy được mặt trời màu xanh thì người đó mới là người tu, còn thấy mặt trời chỉ là màu đỏ thôi thì chưa phải là người tu. “Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi. Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám”. Có ai nói mặt trời “dẻo” và “thơm” không? Khi mình nhai cho có chánh niệm bát cơm gạo tám thì mình thấy cơm dẻo và thơm giống như mặt trời dẻo, mặt trời thơm vậy đó. Nếu như không có mặt trời thì sức mấy mà có cái bát cơm này cho mình ăn. Đây là cái tương tức, đây là cái duyên sinh. Và mặt trời là cái mình đang tiêu thụ.
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong màu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái nhìn chăm chú
Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm.

Nhìn mà thấy được thì mới gọi là nhìn, còn nhìn mà không thấy được thì đó chưa phải là nhìn. Danh từ thiền gọi là khán đáo, tức là nhìn cho kỹ, nhìn cho rõ. Nếu là công án, nếu là thoại đầu thì mình phải nhìn bằng tất cả niệm và định của mình mới thấy được. Nhưng mình đâu cần công án, đâu cần thoại đầu, mình chỉ cần nhìn cái nắm rau mồng tơi thôi, mình chỉ cần nhìn vào gáo nước mình đang đổ vào nồi nấu cơm thôi, thì đã là khán công án rồi. Quý vị nên nhớ cái nhìn đó đem lại rất nhiều hạnh phúc. Mình nhìn con thấy cha, mình nhìn đệ tử thấy thầy, mình nhìn thầy thấy Bụt. Nhìn như vậy đáng để cho mình nhớ. Thương nhau là ở chỗ mình có nhìn được bằng cái tâm của mình hay không.
Tất cả đều nằm trong giây phút hiện tại
Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương.
Bông hướng dương ở bên này còn gọi là bông mặt trời, sun flower.
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào tiên tháng tám
Hồi nãy mình nói mặt trời màu xanh, rồi mình nói mặt trời dẻo, rồi mình nói mặt trời thơm, bây giờ mình nói mặt trời trĩu nặng. Tại vì mặt trời đang có mặt ở trong trái đào tiên tháng tám, mặt trời trĩu nặng trong trái đào tiên tháng tám.
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Nếu trong bước chân của sư chú có thơ, thì sư chú hạnh phúc quá đi. Nếu không có thơ trong bước chân, thì sư cô đâu có hạnh phúc. Vì vậy cho nên phải để thơ vào sang Làng Mai. Tôi cũng đã có cơ hội ngồi đọc bài thơ trong chân mà đi. này cho quý vị.
Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.

Hồi đó, có biết bao nhiêu người bị kẹt lại, trong đó có văn nghệ sĩ, những người đi học tập cải tạo. Bên này có một chương trình gởi quà về cho gia đình những người đó. Những hộp quà toàn là thuốc Tây. Và khi gia đình những người đi học tập cải tạo nhận được gói quà và đem ra bán thì họ có đủ tiền để đi thăm nuôi, để sống trong vòng ba tháng. Lúc đó có rất nhiều những người trẻ xuất gia cũng như tại gia ở đây tham dự vào công việc gói quà để cứu trợ cho những người ở bên nhà. Công việc phải làm trong bí mật, nếu không thì sẽ liên lụy tới những người nhận quà ở Việt Nam. Công việc đầy tràn tình thương. Mình nuôi ai bằng công tác đó? Trước hết là nuôi tình thương trong mình. Trong khi bao nhiêu người chịu bó tay không làm được một chút xíu gì cho dân cho nước cả, mà mình tìm ra được những phương pháp để có thể giúp cho một số người ở trong nước đang lâm vào tình trạng khó khăn, thì đó trước hết là một hạnh phúc cho chính mình. Mình nuôi dưỡng được tình thương cho chính mình. Cho nên mới có câu:
“Thơ nơi từng dòng chữ. Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương”. Dòng chữ trên nắp hộp nói là thuốc này nếu đem bán thì có thể có được số tiền nào đó để mà chữa bệnh, để mà nuôi dưỡng. Nuôi tình thương, nhưng nuôi kín đáo, không ồn ào, không khoe khoang, không kể công.
Ngày xưa có cơ hội, một số anh em cựu tác viên của trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đã được bảo lãnh. Bây giờ bên nhà đã sắp tới giờ Giao Thừa chưa? Tôi xin thỉnh một tiếng chuông để chấm dứt buổi Pháp thoại hôm nay, để các vị ở bên Pháp Vân, Bát Nhã và Từ Hiếu chuẩn bị, vì các vị còn đúng một giờ đồng hồ nữa để chuẩn bị đón Giao Thừa. Bên này thì còn tới bảy giờ đồng hồ nữa mới tới Giao Thừa. Bên này sẽ đi thiền hành trước, và lúc năm giờ rưỡi thì đại chúng ở bên này sẽ đắp y ngồi thiền và lúc sáu giờ tức mười hai giờ khuya bên nhà thì sẽ khai chuông trống Bát Nhã và lạy tổ tiên tâm linh và huyết thống. Quý vị bên nhà có tưởng tượng được không: Bảy giờ chiều nay – tức là khoảng một giờ khuya bên đó – thì bên này ăn chiều. Vào hai giờ khuya bên kia thì bên này bắt đầu trình diễn văn nghệ. Bên này còn thức dài dài.
Kính chúc tất cả các thầy, các sư cô, các sư chú, các Phật tử ở bên nhà có một năm mới Bính Tuất nhiều hạnh phúc, nhiều vững chãi, nhiều thảnh thơi. Có thật nhiều cơ hội để thực tập hạnh phúc.

 Thích Nhất Hạnh