Sunday, December 2, 2018

Tiểu sử của Tsongkhapa (rJe Tsong-kha-pa Blo-bzang grags-pa) (1357-1419)


Tiểu sử của một Lạt ma vĩ đại được gọi là "namtar" (rnam-thar), một tiểu sử giải phóng, vì nó truyền cảm hứng cho người nghe theo gương của Lạt ma sẽ đạt được giải phóng và giác ngộ. Tiểu sử của Tsongkhapa (rJe Tsong-kha-pa Blo-bzang grags-pa) (1357-1419) thực sự là cảm hứng.

Tiên Tri và Thời thơ ấu

Cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Guru Rinpoche đã tiên đoán sự ra đời và những thành tựu của Tsongkhapa. Vào thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một cậu bé là một hóa thân trước đây của Tsongkhapa đã đưa ra một chuỗi hạt hoa hồng pha lê cho Đức Phật và nhận lại một vỏ ốc xà cối. Đức Phật đã tiên tri Manjushri sẽ được sinh ra như một cậu bé ở Tây Tạng, sẽ tìm thấy ở tu viện Ganden, và sẽ trình bày một vương miện tượng của tôi. Đức Phật giao cho cậu bé cái tên tương lai là Sumati-kirti (Blo-bzang grags-pa, Lozang-dragpa). Guru Rinpoche cũng tiên đoán một tu sĩ có tên là Lozang-dragpa sinh ra ở gần Trung Quốc, sẽ được xem như là một hóa thân của Bồ Tát vĩ đại, và sẽ làm tượng Phật bằng một biểu tượng Sambhogakaya.

Một số dấu chỉ trước khi Tsongkhapa ra đời cũng chỉ ra rằng ông sẽ là một con người tuyệt vời. Cha mẹ của ông, ví dụ, có nhiều giấc mơ tốt lành rằng con của họ sẽ là một emanation của Avalokiteshvara, Manjushri, và Vajrapani. Người thầy của ông, Chojey Dondrub-rinchen (Chos-rje Don-grub rin-chen), đã nói với Yamantaka rằng ông (Yamantaka) sẽ đến Amdo (A-mdo, đông bắc Tây Tạng) trong một năm nhất định và trở thành đệ tử của ông.

Tsongkhapa sinh ra ở Tsongkha (Tsong-kha), Amdo, vào năm 1357, con thứ tư trong số sáu con trai. Một ngày sau khi Tsongkhapa ra đời, Chojey Dondrub-rinchen đã phái đệ tử chính của mình cho cha mẹ bằng những món quà, bức tượng, và một lá thư. Cây sandlewood phát triển từ chỗ mà dây rốn của ông rơi xuống đất. Mỗi lá có một bức tranh tự nhiên của Phật Sinhanada (Sangs-rgyas Seng-ge sgra), và do đó được gọi là Kumbum (sKu-'bum), một trăm nghìn hình ảnh cơ thể. Tu viện Gelug gọi là Kumbum sau này được xây dựng tại chỗ đó.
[Xem: Một Lịch sử ngắn gọn của Tu viện Kumbum.]

Tsongkhapa không giống như một đứa trẻ bình thường. Anh ta không bao giờ làm việc xấu; ông tự bản thân tham gia vào các hành động loại Bồ tát; và anh ấy rất thông minh và luôn muốn học mọi thứ. Ở tuổi lên ba, ông đã thọ giới từ Karmapa thứ tư, Rolpay-dorjey (Kar-ma-pa Rol-pa'i rdo-rje) (1340-1383). Ngay sau đó, cha ông mời Chojey Dondrub-rinchen đến nhà của họ. Lạt ma đề nghị chăm sóc cho sự giáo dục của cậu bé và người cha hài lòng đồng ý. Cậu bé ở nhà cho đến khi lên bảy tuổi, học với Chojey Dondrub-rinchen. Chỉ cần nhìn thấy lama đọc, ông bản năng biết làm thế nào để đọc mà không cần phải được giảng dạy.

Trong thời gian này, Chojey Dondrubin-rinchen đã trao cho cậu bé những quyền năng của Năm Chân Lý Chakrasamvara (Dril-bu lha-lnga), Hevajra, Yamantaka và Vajrapani. Đến năm bảy tuổi, Ngài đã ghi nhớ các nghi lễ hoàn chỉnh của họ, đã hoàn tất cuộc thiền Chakrasamvara, đã bắt đầu tự tánh và đã có một tầm nhìn về Vajrapani. Ông thường mơ ước Atisha (982-1054), đó là một dấu hiệu cho thấy ông sẽ sửa những hiểu lầm về Pháp ở Tây Tạng và khôi phục lại sự tinh khiết của nó, kết hợp với kinh điển và tantra, như Atisha đã làm xong.

Năm bảy tuổi, Tsongkhapa đã nhận được lời thệ nguyện của người mới đến từ Chojey Dondrubin-rinchen và tên truyền chức tên là Lozang-dragpa. Ông tiếp tục học tại Amdo với vị lạt ma này cho đến năm mười sáu, lúc đó ông đã đến U-tsang (dBus-gtsang, miền Trung Tây Tạng) để nghiên cứu sâu hơn. Anh ấy chưa bao giờ trở về quê hương. Chojey Dondrub-rinchen vẫn ở Amdo, nơi ông thành lập Tu viện Jakyung (Bya-khyung dGon-pa) về phía nam của Kumbum.


Các nghiên cứu ban đầu ở miền Trung Tây Tạng

Ở Trung Tây Tạng, Tsongkhapa lần đầu tiên học tại tu viện Drigung Kagyu, nơi ông đã học được truyền thống Mahamudra của Drigung gọi là "sở hữu năm" (phyag-chen lnga-ldan), y khoa, và chi tiết thêm về bodhichitta. Đến năm 17 tuổi, ông là một bác sĩ chuyên môn. Sau đó ông nghiên cứu Filigree of Realizations, các văn bản khác của Maitreya, và prajnaparamita (phar-phyin, nhận thức phân biệt sâu xa) tại một số tu viện Nyingma, Kagyu, Kadam và Sakya, ghi nhớ các văn bản chỉ trong vài ngày. Đến năm 19 tuổi, ông đã được công nhận là một học giả vĩ đại.

Ông tiếp tục đi đến các tu viện nổi tiếng nhất của truyền thống Phật giáo Tây Tạng, nghiên cứu năm chủ đề đào tạo chính Geshe và hệ thống các nguyên lý của Ấn Độ, tranh luận và ngồi để tranh luận. Ngài đã nhận được các giáo lý Kadam Lam-rim (Lam-rim, xếp loại Sutra) và vô số các quán đảnh và truyền bá tantric, bao gồm truyền thống Sakya của lamdray (lam-bras, các con đường và kết quả), truyền thống Drigung Kagyu của sáu giáo lý của Naropa (Na-ro'i chos-drug, sáu yogas của Naropa), và Kalachakra. Ông cũng nghiên cứu thành phần thơ, chiêm tinh, và xây dựng mandala. Trong tất cả các nghiên cứu của ông, ông chỉ nghe một lời giải thích một lần và sau đó ông hiểu và nhớ nó một cách hoàn hảo - như trường hợp Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn.
Tsongkhapa luôn luôn từ bỏ mạnh mẽ. Ngài sống cực kỳ khiêm tốn và giữ lời thề của mình hoàn toàn. Ngài có thể dễ dàng đạt được shamatha (zhi-gnas, trạng thái tĩnh lặng và định tâm) và vipashyana (lhag-mthong, một trạng thái tâm trí đặc biệt nhận thức), nhưng không bao giờ hài lòng với việc học tập và trình độ của mình. Ông tiếp tục đi và yêu cầu học giáo lý nhiều lần thậm chí trên cùng một văn bản. Ông tranh luận và ngồi kiểm tra với hầu hết các thạc sĩ đã học được trong ngày với mình.

Một trong những giáo sư chính của ông là Rendawa (1349-1412), một bậc thầy Sakya. Tsongkhapa đã viết lời khen ngợi Migtsema (dMigs-brtse-ma) cho ông ta, nhưng vị tổng quyền này đã dành lại nó cho Tsongkhapa. Sau này trở thành câu thơ được nhắc lại cho Tsongkhapa guru-yoga.

Giảng Dạy Đầu tiên và Viết

Tsongkhapa bắt đầu giảng dạy trong khi ở tuổi 20 của mình, với giáo huấn đầu tiên của ông về abhidharma (mdzod, các chủ đề kiến ​​thức đặc biệt). Mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết của mình. Ông cũng bắt đầu viết và thực hiện nhiều khóa tu. Chẳng bao lâu, ông đã có nhiều đệ tử của riêng mình. Mặc dù một số tường thuật cho hay Tsongkhapa đã thọ giới tu sĩ đầy đủ ở tuổi 21, nhưng không rõ năm này có thực sự diễn ra như thế nào. Có lẽ sau đó ở độ tuổi 20 của mình.

Vào một thời điểm, ông nghiên cứu và phân tích toàn thể Kangyur (bKa '-' gyur) và Tengyur (bsTan-'gyur) - những lời dạy trực tiếp của Đức Phật và những bình luận của Ấn Độ. Sau đó, ở tuổi 32, ông đã viết một Mân Côi, Mân Côi về giải thích xuất sắc (Legs-bshad gser-phreng), một bài bình luận về Mối Lòng Thực hiện và do đó về prajnaparamita. Ông đã tổng hợp và thảo luận tất cả 21 bình luận của Ấn Độ. Bất cứ điều gì ông viết, ông đã chứng minh với các trích dẫn từ toàn bộ thời kỳ văn học Phật giáo Ấn Độ và Tây Tạng, so sánh và phê bình biên tập những bản dịch khác nhau. Không giống những học giả trước đây, ông không bao giờ thoát khỏi việc giải thích các đoạn văn khó hiểu nhất và khó hiểu nhất trong bất kỳ văn bản nào.
Thông thường, Tsongkhapa có thể ghi nhớ mỗi ngày mười bảy trang Tây Tạng hai mặt của chín đường dây ở mỗi bên. Một khi một số học giả tổ chức một cuộc thi ghi nhớ để xem ai có thể ghi nhớ được hầu hết các trang trước khi mặt trời ló lên tấm banner trên mái nhà của tu viện. Tsongkhapa thắng với bốn trang, trong đó ông đọc trôi chảy không có lỗi. Người kế tiếp gần nhất chỉ có thể làm được hai rưỡi, và với sự kinh ngạc.

Tsongkhapa sớm bắt đầu cung cấp các sự truyền bá và thần bí tantric, và đặc biệt là sự cho phép tiếp theo (rjes-snang, jenang) của Sarasvati (dByangs-can-ma) cho sự khôn ngoan. Ông cũng tiếp tục nghiên cứu về tantra, đặc biệt là Kalachakra.

Một vị Lạt ma vĩ đại nổi tiếng đã dạy mười một bài văn cùng một lúc. Một đệ tử yêu cầu Tsongkhapa làm như vậy. Tsongkhapa đã dạy mười bảy kinh điển kinh điển, tất cả đều từ bộ nhớ, mỗi buổi mỗi ngày, bắt đầu tất cả trong cùng một ngày và kết thúc ba tháng sau đó, cũng trong cùng một ngày. Trong bài diễn thuyết, ông bác bỏ những diễn giải không chính xác của mỗi người và đưa ra quan điểm riêng của mình. Mỗi ngày trong suốt bài diễn thuyết, ngài cũng đã thực hiện tự thiền (bdag-'jug) của Yamantaka và tất cả những thực hành tantric khác của mình.

Nếu chúng ta nhìn vào cuộc đời chỉ 62 năm của mình, và xem xét ông ta học tập, thực hành (bao gồm cả việc tạo ra những bức tượng đất sét tsatsa), ông viết, giảng dạy, và rút lui, có vẻ như không thể ai có thể làm được cả một trong số họ trong suốt cuộc đời.

Học tập và Thực hành Tantra Chuyên sâu

Ngay sau đó, Tsongkhapa đã thực hiện khóa tu tantric đầu tiên của mình, trên Chakrasamvara theo dòng truyền thừa Kagyu. Trong khóa tu này, ngài suy gẫm về sáu giáo lý của Naropa và sáu pháp môn của Niguma (Ni-gu'i chos-drug, sáu yogas của Niguma). Ông đã đạt được sự chứng ngộ tuyệt vời.

Sau đó, ở tuổi 34, Tsongkhapa đã quyết định tham gia vào việc nghiên cứu chuyên sâu và thực hành của tất cả bốn lớp Tantra. Như sau này ông đã viết, người ta không thể thực sự đánh giá cao sự tràn ngập của tantra anuttarayoga trừ khi một người đã thực hành và hiểu rõ sâu hơn ba tantra thấp hơn. Do đó, ngài đã đi lại rộng rãi và nhận được nhiều quyền năng và giáo lý về ba tầng lớp Tantra thấp hơn. Ông cũng nghiên cứu thêm giai đoạn hoàn chỉnh năm giai đoạn (rdzogs-rim) của Guhyasamaja và Kalachakra.

Nghiên cứu và rút lui để thu nhận nhận thức phi ý thức về sự trống rỗng

Tsongkhapa cũng đã đến nghiên cứu về pháp môn Manjushri Dharmachakra và Madhyamaka với Karma Kagyu Lama Umapa (Bla-ma dbu-ma-pa dPa'-bo rdo-rje). Đạo sư vĩ đại này đã nghiên cứu Madhyamaka với truyền thống Sakya, và từ thời thơ ấu đã có tầm nhìn hàng ngày của Manjushri, người đã dạy cho ông một câu mỗi ngày. Tsongkhapa và ông trở thành giáo viên và đệ tử. Lama Umapa đã kiểm tra với Tsongkhapa để nhận được xác nhận rằng những lời dạy mà ông nhận được trong tầm nhìn của ông về Manjushri là chính xác. Điều này rất quan trọng, vì tầm nhìn có thể bị ảnh hưởng bởi quỷ.
Cùng với Lama Umapa, Tsongkhapa đã thực hiện một cuộc tĩnh tâm rộng lớn trên Manjushri. Từ thời gian này trở đi, Tsongkhapa nhận được sự hướng dẫn trực tiếp từ Manjushri trong những khải tượng thuần khiết và có thể nhận được từ ông ta câu trả lời cho tất cả các câu hỏi của ông. Trước đó, ông phải đặt câu hỏi lên Manjushri thông qua Lama Umapa.

Trong khóa tu, Tsongkhapa cảm thấy mình vẫn chưa hiểu rõ Madhyamaka và Guhyasamaja. Manjushri khuyên rằng ông sẽ rút lui rất dài và sau đó sẽ hiểu được những ghi chép ông đã lấy từ các hướng dẫn của ông ta. Như vậy, sau khi giảng dạy một thời gian ngắn, Tsongkhapa bước vào một khóa tu bốn năm với tám môn đệ gần gũi tại Olka Cholung ('Ol-kha chos-lung). Họ đã thực hiện ba mươi lăm bộ 100.000 lần lễ lạy, mỗi người một đến ba chư Phật xưng tội, và mười tám bộ 100.000 dâng hương, với nhiều lễ quán đảnh Yamantaka và nghiên cứu Kinh Avatamsaka (mDo phal-cher) cho các hành động Bồ Tát. Họ đã có một tầm nhìn về Maitreya sau đó.

Sau cuộc tĩnh tâm, Tsongkhapa và đệ tử của ông đã khôi phục lại bức tượng Maitreya vĩ đại ở Lhasa, đây là tác phẩm đầu tiên trong bốn hành động chính của ông. Sau đó họ đi vào tĩnh tâm thêm năm tháng nữa. Sau đó, Nyingma Lama Lhodrag Namka-gyeltsen, người tiếp tục có tầm nhìn về Vajrapani, đã mời Tsongkhapa, và họ cũng trở thành giáo viên và đệ tử. Ông truyền cho ông ta những bài học truyền thống và những đường dẫn truyền khẩu.

Tsongkhapa muốn đi đến Ấn Độ để nghiên cứu thêm, nhưng Vajrapani khuyên nên ở lại Tây Tạng vì ông sẽ được hưởng lợi nhiều hơn ở đó. Vì vậy, ông ở lại. Ông giải quyết rằng sau đó ông sẽ viết một bài thuyết trình lớn về Các giai đoạn đã được phân loại của con đường (Lam-rim chen-mo) trên con đường được phân loại và sau đó là một bài thuyết trình lớn về các giai đoạn được phân cấp của con đường Tantra (sNgags-rim chen-mo ) trên các giai đoạn thực hành của bốn tantra.

Tsongkhapa sau đó đã thực hiện một cuộc tĩnh tâm rộng rãi trên sân khấu đầy đủ Kalachakra, và sau đó, một khóa tu Madhyamaka một năm. Mặc dù Tsongkhapa đã học được nhiều về Madhyamaka và sự trống rỗng từ giáo viên của mình, nhưng ông chưa bao giờ cảm thấy hài lòng với mức độ giải thích. Trước khi nhập thất một năm này, Manjushri khuyên ông nên dựa vào lời bình luận Madhyamaka bởi Buddhapalita (Sangs-rgyas bskyangs). Tsongkhapa làm như vậy, và do đó trong suốt khóa tu, đã nhận được sự nhận thức đầy đủ về sự trống rỗng.
Dựa trên nhận thức của mình, Tsongkhapa đã sửa đổi hoàn toàn sự hiểu biết về các giáo lý của Prasangika-Madhyamaka về sự trống rỗng và các chủ đề liên quan mà các giáo viên và các bậc thầy của ông đã nắm giữ. Về vấn đề này, ông là một nhà cải cách cơ cực với lòng dũng cảm vượt xa niềm tin hiện tại khi ông thấy họ không đầy đủ.

Tsongkhapa luôn dựa vào những cải cách của mình một cách chặt chẽ về logic và các tài liệu tham khảo thánh thư. Khi ông thiết lập quan điểm riêng của mình như một ý nghĩa sâu sắc nhất của các văn bản Ấn Độ vĩ đại, ông không vi phạm mối quan hệ chặt chẽ và mối quan hệ với giáo viên của mình. Nhìn thấy những vị thầy tâm linh của chúng ta như những vị Phật không có nghĩa là chúng ta không thể vượt qua chúng trong những nhận thức của chúng ta.

Tsenzhab Serkong Rinpoche II giải thích điều này bằng ví dụ sau đây.
Để làm bánh, chúng ta cần phải kết hợp nhiều nguyên liệu - bột, bơ, sữa, trứng, vân vân. Giáo viên của chúng tôi chỉ cho chúng tôi làm thế nào để làm một chiếc bánh và nướng một ít cho chúng tôi. Chúng có thể rất ngon và chúng ta có thể thưởng thức chúng rất nhiều. Do sự tử tế của giáo viên của chúng tôi, bây giờ chúng ta biết làm thế nào để làm một chiếc bánh. Điều này không có nghĩa là chúng ta không thể thực hiện một số thay đổi, bổ sung một số thành phần khác nhau, và bánh nướng thậm chí còn ngon hơn những gì các giáo viên của chúng tôi thực hiện. Khi làm như vậy, chúng tôi không phải là thiếu tôn trọng đối với giáo viên của chúng tôi. Nếu giáo viên thực sự có trình độ, họ sẽ vui mừng trong sự cải tiến của chúng tôi về công thức và thưởng thức bánh ngọt mới với chúng tôi.

Tiếp tục hành động tốt

Sau khi giảng dạy nhiều hơn, Tsongkhapa lại đi tham dự khóa tu, lần này là với thầy Rendawa của mình, và đã viết hầu hết Lam-rim chen-mo. Trong khóa tu, ông đã có một cái nhìn về Atisha và các bậc thầy dòng truyền thừa lam-rim kéo dài trong một tháng, làm rõ nhiều câu hỏi. Tiếp theo, ông nghiên cứu sáu thực hành của Naropa và Mahamudra hơn nữa với Drigung Kagyu. Trong mùa mưa sau đó, Ngài dạy vinaya ('dul-ba, các quy tắc kỷ luật) rõ ràng, nó được coi là hành động vĩ đại thứ hai của ông.

Sau khi hoàn thành Lam-rim chen-mo, Tsongkhapa đã quyết định giảng dạy đầy đủ hơn.Tuy nhiên, trước tiên, ngài đã viết những lời bình luận sâu rộng về các lời thệ nguyện Bồ tát và Tỳ kheo Fifty Stanzas trên Đạo sư (Bla-ma lnga-bcu-pa, Skt Gurupanchashika) để nhấn mạnh chúng như là nền tảng cho thực hành Mật tông. Sau đó, trong khi tiếp tục giảng dạy, ông đã viết Ngag-rim chen-mo và nhiều bình luận về Guhyasamaja. Ông cũng đã viết về Yamantaka và trên các bản văn Madhyamaka của Nagarjuna.

Hoàng đế Trung Quốc đã mời ông trở thành sư phụ gia đình của ông, nhưng Tsongkhapa đã tự bào chữa cho mình rằng ông quá già và muốn ở lại trong tĩnh tâm.

Trong hai năm tiếp theo, Tsongkhapa đã dạy Lam-rim và Mật tông một cách rộng rãi và đã viết Bản Tóm Lược Giải Thích Tuyệt Vời về Những Ý Nghĩa Giải Đáp và Nghĩa Định (Drang-nges-bshad snying-po) về những ý nghĩa dứt khoát và có thể diễn giải được của các nguyên lý Đại Thừa. Sau đó, vào năm 1409, ở tuổi 52, ông khánh thành Lễ hội Cầu nguyện lớn Monlam (sMon-lam chen-mo) tại Lhasa Jokang (Jo-khang). Ông đã đưa ra một vương miện vàng cho bức tượng Shakyamuni, cho thấy bây giờ nó đã là một bức tượng Sambhogakaya, không chỉ Nirmanakaya. Sambhogakaya các hình thức của chư Phật sống cho đến khi tất cả chúng sinh được giải thoát khỏi sinh tử, trong khi Nirmanakaya chỉ sống được một thời gian ngắn. Đây được xem là hành động vĩ đại thứ ba của ông. Sau đó, các đệ tử của ông yêu cầu ông ngừng đi hành đạo và họ thành lập Tu viện Ganden (dGa'-ldan dGon-pa) cho ông.
[Xem: Một Lịch Sử Tóm Lược về Tu Viện Ganden]

Tại Ganden, Tsongkhapa tiếp tục giảng dạy, viết (đặc biệt là về Chakrasamvara), và thực hiện các khóa tu. Ông đã ủy nhiệm xây dựng hội trường Ganden vĩ đại với bức tượng Phật lớn và bằng đồng, ba chiều đồng của Guhyasamaja, Chakrasamvara và Yamantaka. Đây được xem là hành động vĩ đại thứ tư của ông. Ông tiếp tục bài viết của mình và cuối cùng, các tác phẩm của ông đã thu thập được tổng cộng mười tám tập, với số lượng lớn nhất là trên Guhyasamaja.

Qua đời

Tsongkhapa qua đời ở Ganden năm 1419, ở tuổi 62. Ông đã đạt được giác ngộ sau cái chết của mình bằng cách đạt được một thân hình ảo tưởng (sgyu-lus) thay vì bardo. Điều này nhằm nhấn mạnh đến nhu cầu các nhà sư phải tuân theo nghiêm ngặt nghiêm ngặt, vì sự giác ngộ trong đời này đòi hỏi thực hành với một người phối ngẫu ít nhất một lần.
Trước khi qua đời, Tsongkhapa tặng mũ và áo cho Gyeltsabjey (1300-1432), người đã tổ chức ngôi đền Ganden trong mười hai năm sau đó. Điều này bắt đầu truyền thống của Người giữ ngai Ganden (dGa'-ldan khri-pa, Ganden Tripa) là người đứng đầu trật tự Gelug. Người giữ ngôi vị kế tiếp là Kaydrubjey (1348-1438), người sau này có năm cảnh giác của Tsongkhapa, làm rõ những nghi vấn của mình và trả lời các câu hỏi của mình. Dòng Gelug đã phát triển mạnh kể từ đó.

Môn đồ

Một số đệ tử thân cận của Tsongkhapa đã thành lập các tu viện để tiếp tục các dòng truyền thừa và truyền bá giáo lý của mình. Trong khi Tsongkhapa vẫn còn sống, Jamyang Chojey (1379-1449) thành lập Tu viện Drepung ('Bras-spungs dGon-pa) vào năm 1416 và Jamchen Chojey (Byams-chen Chos -rje Shakya ye-shes) (1354-1435) thành lập Tu viện Sera (Se-ra dGon-pa) năm 1419. Sau khi Tsongkhapa qua đời, Gyu Sherab-senggey (rGyud Shes-rab seng-ge) (1383-1445) thành lập Gyumay Lower Tantric College (rGyud-smad Grva-tshang) vào năm 1433 và Gyelwa Gendun-drub (rGyal-ba Ge-dun grub) (1391-1474), được mệnh danh là Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên, thành lập Tu viện Tashilhunpo (bKra-shis lhun -po) năm 1447.

Một lịch sử ngắn gọn của tu viện Kumbum

Tu viện Kumbum Jampa-ling (sKu-'bum Byams-pa gling) được Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba, Sonam-gyatso (rGyal-ba bSod-nams rgya-mtsho) (1543-1588) thành lập vào năm 1583. Nó được xây dựng ở Amdo (A-mdo), gần Hồ Kokonor (mTsho-sngon), tại địa điểm nơi Tsongkhapa (rJe Tsong-kha-pa Blo-bzang grags-pa) (1357-1419), người sáng lập Gelug Truyền thống, đã được sinh ra. Nó đã được tiên tri trong một số bản văn của các bậc thầy Kadam (bKa'gdams).

Một giọt máu rơi xuống từ dây rốn của Tsongkhapa khi nó được cắt sau khi sinh. Từ đợt này, cây cọ trắng tuyệt vời. Nó có một thân cây rất rộng và 100.000 lá, mà nó không bao giờ mất. Ở Tây Tạng, con số 100.000 chỉ đơn thuần là một con số rất lớn và không có ý nghĩa gì. Trên mỗi lá là một hình ảnh của Đức Phật Sinhanada (Seng-ge sgra). Trên vỏ cây và thân cây là những thiết kế của các âm tiết hạt và dụng cụ tay của vị Phật này. Trong tương lai, Tsongkhapa sẽ sinh ra như Sinhanada, vị Phật thứ nhất của 1000 người sẽ dâng hiến trái đất trong thời kỳ may mắn này.

Năm 1379, mẹ của Tsongkhapa, với sự giúp đỡ của các tín hữu địa phương, đã xây dựng một ngôi đền nhỏ với một ngôi tháp xung quanh cây này. Nó đứng cho đến ngày nay. Đây là ngôi đền đầu tiên ở Kumbum. Năm 1481, những người cao quý và những người du mục của vùng Kokonor đã xây dựng một ngôi đền lớn hơn để làm lễ cúng tại cây thánh. Năm 1560, người thiền Rinchen-tsondru-gyeltsen (Rin-chen brtson-'grus rgyal-mtshan) đã xây dựng một tu viện nhỏ ở đó, gọi là Gonpalung (dGon-pa lung), để thiền định thiền định. Lúc đầu, nó có bảy tu sĩ cùng một lúc, nhưng nhanh chóng mở rộng để giữ mười lăm.

Năm 1576, Altan Khan (1507-1583) của Tumed Mongols đã mời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba tương lai, Sonam-gyatso, mang Phật giáo đến Mông Cổ. Vào thời điểm đó, Sonam-gyatso, được biết đến với cái tên Gyelwa Rinpoche (rGyal-ba Rin-po-che) hoặc Drepung Tulku ("Bras-spungs sPrul-sku"), hóa thân thứ ba trong dòng đầu tiên của các lạt ma nhập thể Gelug truyền thống. Sau khi Altan Khan thông qua Phật giáo, ông đã trao cho Gyelwa Sonam-gyatso danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma. "Đavít" là bản dịch tiếng Mông Cổ của "gyatso", có nghĩa là "đại dương". Như vậy, Gyelwa Sonam-gyatso đã trở thành Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ ba.

Trên đường đến gặp Altan Khan gần Kokonor, Gyelwa Sonam-gyatso đã ngăn chặn cuộc tĩnh tâm bị cô lập bởi cây thánh giá đánh dấu vị trí Tsongkhapa được sinh ra. Ông yêu cầu Rinchen-tsondru-gyeltsen xây dựng một tu viện lớn hơn tại địa điểm này và bổ nhiệm ông làm vị Lama đầu. Tu viện được hoàn thành vào năm 1583 và Lễ hội Cầu Nguyện hàng năm (sMon-lam) được khánh thành như tổ chức tại Lhasa.

Tu viện mới được gọi là Kumbum Jampa-ling. "Kumbum" có nghĩa là 100.000 cơ quan giác ngộ của Đức Phật. Nó được đặt tên sau 100.000 hình ảnh của Đức Phật Sinhanada trên lá cây cát thánh. "Jampa-ling" có nghĩa là "Maitreya Cloister." Điều này nói đến ngôi đền Maitreya được xây dựng bởi Rinchen-tsondru-gyeltsen bên phải của cây quý. Hơn nữa, Tsongkhapa được coi là không thể tách rời trong tự nhiên từ Đức Phật Di Lặc, và bất cứ thực hành tâm linh nào làm tại địa điểm này được cho là mang lại sự tái sinh trong Tịnh độ Maitreya.

Vị trí Ngai vàng đầu tiên của Kumbum là Duldzin Ozer-gyatso, sinh năm 1557. Năm 1603, Đạt Lai Lạt Ma thứ tư, Yonten-gyatso (rGyal-ba Yon-tan rgya- mtsho) (1589-1616), dừng lại ở Kumbum trên đường từ Mông Cổ bản xứ đến miền Trung Tây Tạng. Vào thời điểm đó, ông tuyên bố nhu cầu thành lập một phòng nghiên cứu và để Duldzin Ozer-gyatso được bổ nhiệm làm đầu của toàn bộ tu viện. Tại Lễ hội Cầu nguyện Monlam của Kumbum năm 1612, Duldzin Ozer-gyatso lần đầu tiên lên ngôi của Abbot và mở Trường Cao đẳng Tranh luận, Pelden Shaydrubling Dratsang (dPal-ldan bShad-glarning Grva-tshang).

Kumbum có bốn trường cao đẳng tu viện. Đại học lớn nhất là Đại học Debate. Hầu hết các bộ phận của nó sử dụng các sách giáo khoa của Jetsunpa Chokyi-gyeltsen (1476-1544), như ở Ganden Jangtsey (dGa'-ldan Byang-rtse Grva-tshang) và Sera Jey Cao đẳng (Se-ra Byes Grva-tshang) gần Lhasa. Một vài trong số các divisons theo các sách giáo khoa của Kunkyen Jamyang-zhaypa Ngawang-tsondru (Kun-mkhyen 'Jam-dbyangs bzhad-pa Ngag-dbang brtson-'grus) (1648-1722), cũng như tại Cao đẳng Gomang (sGo-mang Grva -tshang) của Tu viện Drepung ('Bras-spungs dGon-pa) và Tu viện Labrang (Bla-brang dGon-pa). Các mức cao nhất của Geshe Rabjampa (dGe-bshes Rab-'byams-pa) và Geshe Shayrampa (dGe-bshes bShad-ram-pa) được trao tặng trong Lễ hội Cầu nguyện Kumbum Monlam mỗi năm.
Đại học Tantric, Gyu (rGyud) hay Sangngag Dechenling Datsang (gSang-sngags bDe-chen gling Grva-tshang), được thành lập bởi Chojey Legpa-gyatso (Chos-rje Legs-pa rgya-mtsho) vào năm 1649. Chương trình giảng dạy sau đó của Gyumay Lower Tantric College (rGyud-smad Grva-tshang) của Lhasa. Sau khi nghiên cứu các bản văn và bình luận chính của các hệ thống Guhyasamaja (gSang-dus), Chakrasamvara (bDe-mchog), và Vajrabhairava (rDo-rje 'jigs-byed), các nhà sư nhận được Geshe Ngagrampa (dGe-bshes sNgags-ram -pa) độ

Năm 1711, Chuzang Lozang-tenpay-gyeltsen (Chu-bzang Blo-bzang btsan-pa'i rgyal-mtshan) đã xây dựng một trường cao đẳng Tantric mới, Ngagpa Dratsang (sNgags-pa Grva-tshang). Năm 1723, quân đội Manchu và quân đội Trung Quốc đã tàn phá nặng nề bốn ngôi chùa lớn của khu vực Kokonor - Kumbum, Gonlung (dGon-lung dGon-pa), Serkog (gSer-khog dGon-pa) và Chuzang (Chu-bzang dGon- pa) - và nhiều nhà sư chạy trốn. Không lâu sau đó, chỉ huy trưởng Manchu đã yêu cầu chủ sở hữu Triều tiên Hai mươi để chuyển Ngagpa Dratsang mới thành Trường Cao Đẳng Y Khoa và điều này đã được thực hiện. Với sự bổ nhiệm của một số bác sĩ nổi tiếng, Trường Cao đẳng Y khoa, Menpa Dratsang Sorig-dargyey-zhenpen-norbuling, được mở năm 1725. Nó đã trở thành một trường cao đẳng riêng trong thời gian Người giữ Hai mươi hai. Các bác sĩ tốt nghiệp được nhận bằng Menrampa (sMan-ram-pa).

Trường cao đẳng thứ tư tại Kumbum là trường Cao đẳng Kalachakra, Dukor Dratsang Rigden Losel-ling (Dus-'khor Grva-tshang Rigs-ldan Blo-gsal gling). Nó được thành lập vào năm 1820 bởi Ngawang-shaydrub-tenpay-nyima (Ngag-dbang bshad-grub bstan-pa'i nyi-ma). Các nhà sư ở trường cũng nghiên cứu chiêm tinh học và nhận được bằng cấp Tsirampa (rTsis-ram-pa) sau khi hoàn thành chương trình học.

Trước năm 1958, Kumbum có 3.600 nhà sư. Hiện tại, có 400 người. Trong số này có 300 người đang học tại trường Debate College và phần còn lại được chia đều cho ba trường đại học khác. Theo truyền thống, đa số các nhà sư Kumbum là người Tây Tạng từ Amdo. Cũng như tại Tu viện Labrang, phần còn lại là Mongolian Mongols (phyi-sog), Mông Cổ Mông Cổ bên trong (smad-sog, nang-sog), Kokonor Mongols (stod-sog) từ vùng Amdo phía đông của Kumbum, Mongours (hòn- pa) từ vùng Amdo phía bắc của Kumbum, Yugurs vàng (yu-gur) từ Gansu (Kansu), Tân Cương Kalmyk Mongols, và người Hoa.


Sưu tầm trên net

Mọi sai sót là của Gelek Dorje
Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh.

Saturday, July 28, 2018

Thôn Vỹ xao xuyến nhớ - Nguyễn Thị Kim Thoa




Sao anh không về chơi Thôn Vỹ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên (Hàn Mạc Tử)


Cái thời đi học ở trường tiểu học Thế Dạ rồi trung học Đồng Khánh, ngày hai buổi ôm cặp đi về, tôi thường ngắm nhìn những ngôi nhà ẩn mình sau những chòm cây xanh ngắt, dõi mắt theo bóng dáng các tiểu thư khuê các ẩn hiện sau hàng rào chè tàu được sắp thẳng tắp hoặc thơ thẩn dưới những giàn hoa màu tím, màu xanh thiên lý.
Thiếu nữ, cây lá, nắng hoa, tiếng đàn, lời ca đã đưa tôi vào mộng.
Cái thuở chui hàng rào các khu vườn để hái hoa bắt bướm, bơi dọc theo dòng sông sau nhà hái những trái mâm xôi chín mọng ở bến nước, tôi đã làm quen và lần hồi biết tên các cô gái trong những ngôi nhà kín cổng cao tường.
Qua khỏi thôn Hô Lâu, ngôi nhà vườn đầu tiên của thôn Vỹ Dạ có kiến trúc khá đặc biệt. Nhà quay mặt ra bờ sông. Đi ngoài đường nhìn vào chỉ thấy bức bình phong chè tàu cao, lối vào nhà hẹp, sâu với hai hàng rào chè tàu được cắt tỉa gọn gàng. Vài cây cau, cây chay mọc đây đó không thẳng hàng. Bức tường sau nhà loang lổ rêu phong. Vườn sau hình như không được chăm chút. Chủ nhân ngôi nhà có lẽ muốn quay lưng lại với con đường, với người qua lại, với cuộc đời. Mỗi khi đi qua cổng nhà này tôi thường đi thật chậm mong nhìn thấy bóng dáng một người con gái thanh mảnh, tóc dài, áo trắng thấp thoáng giữa những bờ rào xanh. Mãi sau này tôi mới biết tên người con gái ấy là Lai Huyền Lục. Từ đó tôi gọi là khu vườn hoang liêu này là khu vườn Lai Huyền Lục.
Khi Mỹ đổ quân vào cửa Thuận An, con đường làng Vỹ Dạ bị mở rộng, các hàng cây ven đường bị đào bới, mặt đường được trải nhựa dày rộng hơn nhưng ngày đêm bị cày nát bởi những chuyến xe GMC chở đầy hàng quân sự, lính Mỹ và đồng minh. Con đường không còn yên ắng, bóng trắng Lai Huyền Lục cũng vắng đi, đầu ngõ nhà có thêm tấm bảng “bác sĩ Đương”. Chỉ ba từ "bác sĩ Đương" đơn giản. Một tấm bảng nhỏ, khiêm tốn không khoa trương như những tấm bảng của các bác sĩ khác ở đầu Đập Đá. Trong thời gian này, tại căn nhà tranh trước ngõ, phía sau của ngôi nhà là tụ điểm của một nhóm du đãng tự gọi là “Đại Cái Bang”. Tôi không rõ lắm về nhóm này, người quanh xóm xem đây là một băng nhóm xã hội đen. Thế nhưng có một lần đi học thêm về tối, đi đến gần ngõ nhà cô Lai Huyền Lục, ngôi nhà hoang liêu mà tôi yêu thích, thấy có một đám thanh niên độ chừng năm bảy người, kẻ cầm côn, kẻ múa gậy đang múa máy tập dượt trông rất hung dữ nên tôi quay xe đạp lui, không dám băng qua để về nhà. Một tiếng gọi to vọng theo: “ Về đi cô gái, các anh không làm gì đâu”. Tôi nửa tin, nửa sợ quay xe trở lại cố lấy hết tinh thần đạp thật nhanh vượt qua đám thanh niên nọ. Quả thật họ không đáng sợ lắm như lời đồn đãi.
Cô Lai Huyền Lục rời căn nhà đi xa lúc nào tôi không biết, còn lại trong tôi cái tên thật đẹp và lạ.
Cạnh vườn nhà cô Lai Huyền Lục là vườn nhà của cụ Ưng Úy. Đây là khu nhà vườn với vạt cỏ tranh rộng. Giữa vườn là một bức bình phong chè tàu cao quá đầu người, hai bên là hai gốc mai cổ thụ, mùa xuân hoa nở rộ vàng rực cả một mảnh trời. Khu vườn vắng lặng, ít cây xanh hơn các nhà bên cạnh, chỉ vài gốc dừa, gốc cau đơn lẻ đó đây. Chiếc cổng sắt tây cũ kỹ thường mở hờ. Một đôi khi, ban trưa vắng người, tôi thường lẻn vào vợt những con bướm trắng, bướm vàng bay lượn trên vạt tranh lá xanh bông trắng. Vườn nhà cụ Ưng Úy không có hàng rào chè tàu, thay vào đó là hai hàng lề xây bằng xi măng ngăn cách vườn với lối đi.
Ngôi nhà có hai người con gái: Á Nam và Lục Hà. Chị Á Nam trang lứa với chị tôi. Tôi thường nhìn thấy chị đạp xe đi học về, hình như lúc nào cũng muốn vội vào nhà. Tôi đứng bên kia đường ôm cặp nhìn chị với tà áo dài trắng, tóc không thả bồng bềnh mà lại được buộc gọn gàng sau vành nón, chị đạp xe vào nhà rất nhanh, tôi chưa lần nào thấy rõ ràng nét mặt chị. Thấp thoáng và rất nhanh là hình ảnh chị Á Nam trong mắt tôi. Đôi lần vào buổi chiều bơi dọc theo dòng sông, qua khu bến nhà chị, tôi thấy chị ngồi cúi đầu mài gót chân trên đá. Lúc bấy giờ tóc chị thả bồng bềnh, gió và nắng chiều trên mái tóc, người và ráng chiều. Tôi thầm hát một mình: “Đàn chim tung cánh xa khuất mờ, chiều thu lưu luyến màu thương nhớ, nhớ mái đầu ai nhuộm nắng vàng...”. Và cứ thế mà tôi mơ mộng.
Lục Hà có lẽ nhỏ tuổi hơn tôi, là bạn học của em tôi. Tôi chỉ nhớ đến cái tên gợi về một dòng sông màu lục và không nhớ gì về người con gái này, có lẽ Lục Hà lúc bây giờ chỉ là một cô bé, qua mắt tôi.
Khi chiến tranh vào thành phố, cổng vườn nhà chị Á Nam cũng bị cày xới như nhưng khu lân cận. Chiếc cổng không còn thẳng, mấy cây dừa, cây cau xơ xác, cỏ tranh không hiểu sao lúc này cũng úa màu, mấy con bướm làm tôi mê mẩn cũng ít lần đi. Trong sân nhà chị thỉnh thoảng tôi thấy có chiếc Jeep quân cảnh, khu vườn thêm hơi thở của chiến tranh.
Đối diện vườn nhà chị Á Nam, phía bên kia đường là khu nhà vườn trông cũ kỹ nhất trong vùng. Một góc trái phía trước là khu mả Ông Trạng (khu gồm những ngôi mộ nhỏ của các bào thai sa sẩy), khu vực này có những cây sầu đông, cây bàng, chằng chịt các loại dây leo, tạo thành một vùng âm u huyễn hoặc, hương khói lúc nào cũng phảng phất. Mỗi khi đi học về tối qua khu vực này, tay tôi thường bắt ấn, miệng lẩm bẩm đọc câu thần chú me dạy: “Án Ma Ni Bát Nhi Hồng Vô Lương Thọ Phật”. Câu chú này tôi không hiểu ý nghĩa là gì và không biết mình đọc như vậy có đúng hay không, nhưng tôi vẫn cứ đọc.
Khu mả Ông Trạng chiếm phần lớn mặt tiền của ngôi nhà, vì thế cổng vào trông hẹp hơn các ngôi nhà khác. Thế nhưng vào bên trong mới thấy hết vẻ bề thế của khu vườn. Chính giữa sân không có bức bình phong chè tàu, thay vào đó là một bồn hoa tròn với các cụm địa lan tím và yên chi vàng, đỏ. Bên cạnh đó là một gốc me cổ thụ với tàng lá xum xuê tỏa bóng mát một góc sân. Ngôi nhà xây theo hình chữ L. Dãy chính hướng mặt ra đường và dãy bên phải hướng về phía Đập Đá. Nhà có tầng cấp cao, đặc biệt phía bên hông trái có cầu thang bằng đá, là đường đi lên một vuông sân thượng nhỏ. Nơi đây các cô con gái thường ngồi ngắm trăng và ca hát. Những cô con gái với những cái tên của các loài hương hoa: Mộc Hương, Liên Hương, Dạ Hương. Cả ba chị có làn da trắng hồng điểm một vài nốt tàn nhang trên gò má cùng với cặp mắt lá răm một mí. Chị Mộc Hương tuổi đã lớn, thường hay ngồi thêu thùa dưới bóng cây me già. Chị Liên Hương và Dạ Hương trang lứa với các chị tôi, họ thường họp nhau làm bánh và đàn ca hát xướng.
Ngõ vào nhà có một hàng cau khoảng năm sáu cây, dưới mỗi gốc cau loài cúc tím (thúy cúc) mọc vương vãi. Vườn trước còn có mãng cầu, ổi, sa bu chê (hồng xiêm), mấy bụi hạnh đào đến mùa sai trái màu đỏ rất đẹp. Vườn sau là dương liễu, vả, chuối, khế và đặc biệt là hai gốc nhãn cổ thụ làm khu vườn thêm âm u. Các cây ăn trái được trồng xen kẽ, không hàng lối. Trong vườn còn để mọc hoang những bụi mắc cỡ (trinh nữ), ngũ sắc, cơm nguội, dạ lan và một vài loài rau như bồ công anh, tàu bay, rau rìu rau éo. Toàn cảnh khu vườn là bối cảnh của một không gian tự nhiên, mới trông có vẻ như là không được chăm chút, nhưng nhìn kỹ thấy chủ nhân sắp đặt các loài hoa, rau, cỏ đan nhau với màu sắc rất hài hòa và thân thiện.
Mỗi khi chiều xuống, các chị ngồi đan thêu hay chơi đàn. Tiếng đàn lúc mờ lúc tỏ, mùi trầm hương từ khu mả, mùi hương hoa cộng lại làm buổi chiều Thôn Vỹ càng thơ mộng và liêu trai.
Các chị Mộc Hương, Liên Hương, Dạ Hương rời bỏ thôn Vỹ ra đi khi nào tôi không hay biết. Mới đây trở lại thôn xưa, nhìn khu vườn nhà tiêu điều, nhà nước chiếm dụng ngôi nhà làm văn phòng phường xã, dân ngụ cư chiếm lấn đất vườn xây nhà, lòng tôi không khỏi xao xuyến.
*
Dọc theo bờ sông, tiếp giáp nhà cụ Ưng Úy là khu nhà vườn của cụ Ưng Thiều. Khu vườn này đã bán một phần phía mặt đường cho một số dân cư ở nơi khác đến, hình thành một xóm nhỏ, một nơi buôn bán tạp hóa, làm nón, và cả một động lên đồng. Vì thế vườn nhà cụ Ưng Thiều nay nằm sâu ở phần đất phía sau, cạnh dòng sông, bên con đường xóm nhỏ hai bên là tre và trúc.
Ngôi nhà lẩn khuất sau hai gốc mộc lan sần sùi. Trước ngõ, một hàng cau làm ranh giới khu vườn và đường xóm. Nhà xây sát mép sông nên chỉ có vườn trước, không có vườn sau. Một gác nhỏ nhô ra khỏi bờ nước làm nơi hóng gió, được gọi là “nhà mát”. Tôi thường sang đây nghe các chị Phùng Khánh, Phùng Thăng kể chuyện. Tôi cũng thường đem biếu các chị những trái đào ngọt lịm của vườn nhà mình.
Vườn trồng xen kẽ mấy cây chanh, mấy cây vả, vài bụi bông trang, vài luống rau cải, rau khoai, mấy bụi môn bẹ tím trong một khoảng đất cạnh bờ sông.
Chiều chiều tôi thường sang chơi, ngồi trên bậc thềm ngắm nhìn các chị Phùng Khánh, Phùng Thăng gánh nước tưới rau. Không hiểu sao tôi rất yêu cái dáng khom lưng gánh nước của các chị. Tôi cũng rất thích nhìn bàn tay xòe tứ sắc mỗi khi các chị chơi bài.
Tôi biết chị Phùng Khánh và chị Phùng Thăng từ ngày các chị còn cắp sách đến trường với hai bím tóc hai bên. Hai chị có dáng người cao, mảnh, giọng nói trong và nhẹ, nụ cười hiền lành và ánh mắt thì xa vời. Đó là những nhận xét thơ ngây của cô bé 11, 12 tuổi là tôi ngày nào. Sau này tôi còn biết thêm cô Phùng Trợ, một cô giáo hay đến nói chuyện Phật Pháp với me tôi và bác Phạm Đăng Siêu. Gia đình cụ Ưng Thiều còn có một cô con gái nữa là Bác sĩ Phùng Mai.
Những người con gái mà tên có chữ lót là Phùng này để lại trong tôi nhiều kỷ niệm lẫn lộn vui buồn. Nhất là chị Phùng Khánh.
Khi tôi bắt đầu đi học, chị Phùng Khánh sắp sửa vào đại học. Trong thôn chị Phùng Khánh nổi tiếng thông minh học giỏi và xinh gái. Ba me tôi rất quí trọng chị, vì thế khi tôi chuẩn bị đến trường, ông bà đã mời chị làm người cầm tay khai bút, khai tâm cho tôi. Ba me tôi mong rằng tôi cũng sẽ học hành giỏi giang và hiền thục như chị.
Hôm đó, ngày mùng hai tết, trong không khí đầu xuân, ba me tôi bày hương án trên chiếc sập gụ, tôi được ăn mặc chỉnh tề ngồi xếp bằng đợi cô giáo đầu tiên. Chị Phùng Khánh trong chiếc áo dài trắng đến ngồi cạnh tôi. Bàn tay mềm mại của chị cầm lấy tay tôi và tập cho tôi viết chữ MẸ. Tôi còn nhớ chị nói với ba me tôi rằng: “con chọn chữ Mẹ, vì trong ngôn ngữ không cớ gì phải học theo thứ tự a, b, c, mà M là âm khởi đầu chữ mẹ của nhiều ngôn ngữ trên thế giới”. Từ đó ba me tôi bắt tôi gọi là Cô Phùng Khánh, cô Phùng Thăng chứ không gọi là chị như trước đây.
Nhà tôi và nhà cô Phùng Khánh, Phùng Thăng cách nhau con đường xóm nhỏ, đứng bên vườn này gọi sang vườn kia nghe rõ mồm một. Tôi là một đứa trẻ thắc mắc lắm điều, cô Phùng Khánh là người hay giải đáp tất cả những gì tôi hỏi. Cô Phùng Thăng ít nói hơn nhưng lại là người hay đọc thơ cho tôi nghe. Những buổi chiều ngồi chơi trên bến nước cô Phùng Thăng hay đọc đi đọc lại hai câu thơ Đường mà mãi sau này khi lớn lên tôi mới hiểu hết ý:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
Cô Phùng Khánh và cô Phùng Thăng rời thôn Vỹ khi tôi vào đại học.
Một hôm tôi nhận được cuốn sách Bắt Trẻ Đồng Xanh do cô Phùng Khánh gởi tặng với tên dịch giả: Thích Nữ Trí Hải.
Cô Phùng Khánh đã xuất gia, lòng tôi bâng khuâng nhiều điều. Me tôi lại bảo: “Thật là phúc đức”. Từ đó tôi càng yêu thêm màu áo lam, màu sen hồng, màu sen trắng.
Vào một trưa mùa hè, me tôi hay tin ni sư Thích nữ Trí Hải về thuyết pháp tại chùa Phước Huệ cùng với cô Phùng Thăng.
Me và tôi đến chùa Phước Huệ để nghe thuyết pháp và cũng để thăm lại người thân quen xưa cũ mà me rất yêu quí. Chùa nhỏ, đệ tử cũng ít nên không khí buổi thuyết pháp ấm cúng và trang trọng. Sau buổi thuyết pháp, mọi người đảnh lễ Phật, tôi mon men lại gần cô Phùng Khánh để thăm hỏi người thầy năm xưa. Nhiều người khác cũng vây quanh người sư nữ với vẻ tôn kính của tín đồ.
Tiếng gọi “Thưa cô!” của tôi lạc lõng giữa bao nhiêu tiếng Bạch ni sư. Bạch ni sư...Cuộc tìm về những kỷ niệm thân thương của tôi thất bại. Tôi buồn bã, lẻ loi và xa lạ.
Màu áo lam, màu sen hồng, sen trắng, màu xanh vườn rau sau chùa mờ đi trong mắt. Tôi đã khóc ư?
Sau chiến tranh, tôi nghe tin cô Phùng Thăng tử nạn tại một hòn đảo nhỏ nào đó ở phía Nam, tôi cúi đầu niệm Nam mô và đọc nhỏ câu thơ cô hát cùng tôi:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”.
Một vài lần vào Sài Gòn, biết ni sư Trí Hải đang ở thiền viện Tuệ Uyển, tôi muốn đến thăm, nhưng không hiểu tại sao, hình ảnh ao sen trước chùa Phước Huệ năm nào lại ngăn cản bước chân trần tục của mình. Ngày cô tử nạn trên đường về từ Phan Thiết sau một chuyến hành thiện, tại Đà Nẵng tôi thắp một nén nhang trước vườn để tưởng nhớ người thầy đầu tiên vô cùng trân trọng và quí mến.
*
Đối diện vườn nhà tôi là khu dân cư từ các nơi về cư trú họp thành một xóm nhỏ với con hẻm dài chạy thẳng ra đồng Vỹ Dạ. Theo lời người quanh xóm kể lại đây là khu đất của phủ Vy Dã đã suy tàn từ lâu, con cháu chia đất phủ ra từng mảnh nhỏ và bán cho người tứ xứ.
Bên cạnh khu dân cư chòm xóm này là khu vườn bề thế của cụ Tả. (dân quanh đây hay gọi là vườn ông Tả có lẽ gọi theo chức vị Tả quân). Đây là khu dinh cơ của cụ thượng thư Tôn Thất Ngân. Khu vườn với những hàng cau, hàng ổi được trồng ngay hàng thẳng lối. Một vài gốc mai cổ thụ gần hiên nhà. Mấy gốc sứ trắng sần sùi bên cạnh bức bình phong xi măng khắc hình con hổ đang vờn ở chính giữa sân. Hai cây vú sữa cuối sân tỏa bóng mát cho một dãy hành lang dài. Vườn cụ Tả phía trước cây thưa, sân rộng rải đá cuội, các chậu cây cảnh xếp thành hàng tạo những lối đi nhỏ trong sân. Vườn sau um tùm, nhiều loại cây cỏ chen nhau tạo thành một khoảng rậm rạp. Vài loài chim làm tổ bay lên đáp xuống trông như một khu rừng nhỏ. Cửa ngõ ngôi nhà luôn đóng kín với hàng chữ “Chien méchant”. Tôi rất mê vợt bướm nhưng không sao vào được khu vườn. Có một vài lần tôi vào cùng với người anh em cô cậu (cô tôi làm dâu nhà này) nhưng toàn khu vườn có vẻ kín đáo khiến người ngoài không dám tò mò nhìn ngó. Tôi có cô bạn học thời tiểu học là bạn Thu, con cô Tè quản gia của gia đình cụ Tả, nhưng tôi cũng ít khi “thăm viếng” dù rất thèm mấy trái ổi chín thơm phức trên cành. Đầu thập niên 60 những người con gái trong dinh thự này đã đi xa, tôi chỉ thấy có một cô khá lớn tuổi dáng vẻ chững chạc ra vào.
Bên cạnh vườn cụ Tôn Thất Ngân cũng có một khu mả Ông Trạng. Khu mả này rộng hơn khu mả trước nhà chị Dạ Hương. Trong khu mả còn có một miếu thờ. Hàng năm vào ngày 23 tháng 5 âm lịch làng tổ chức cúng âm hồn (ngày thất thủ kinh đô, chỉ có ở Huế mới có ngày cúng âm hồn này).
Sau Mậu Thân, cây cối không có người chăm sóc, khu vườn trở nên điêu tàn. Một cụ già còng lưng chống gậy đi lui đi tới trong sân dưới những gốc mai hay tàng vú sữa là hình ảnh tôi thường thấy những năm tháng này.
Chiến tranh chấm dứt, ông cụ qua đời, ngôi nhà vườn đã đổi chủ. Bây giờ trở về chỉ thấy đây là một tụ điểm vui chơi cà phê, giải khát.
*
Đối diện vườn cụ Tả, cạnh vườn nhà tôi là một khu đất bỏ hoang chỉ có cỏ tranh mọc. Một mái nhà tranh nhỏ giữa vườn là nhà của đôi vợ chồng già làm nghề thợ rèn. Hàng ngày bà thụt bệ phụ ông rèn các dụng cụ làm nông như cuốc, xẻng và đôi khi rèn cả dao rựa. Vì không có con nên hai vợ chồng người thợ rèn già này rất thích tôi sang chơi. Những buổi trưa trốn ngủ, tôi thường chui hàng rào qua ngồi thụt bệ giúp bác gái và nghe bác kể chuyện đời xưa giữa những tiếng đe tiếng búa. Câu chuyện bác thợ rèn gái kể rất hấp dẫn đối với tuổi thơ của tôi. Từ ông Thánh Gióng đến Hùng Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung. Từ giặc Ân qua giặc Pháp. Bác đã dẫn dắt câu chuyện thế nào mà tôi nghe say sưa không muốn dứt. Bác gái hay để dành cho tôi những quả ổi chín, mấy trái hạnh đào thơm ngọt, mấy trái chay vàng bác hái từ cây trồng quanh túp lều. Bác thợ rèn trai biết bện những bông tranh màu trắng thành những con thú nhỏ. Bác đã chỉ dẫn cho tôi nhưng tôi chẳng tài nào học được. Từ bệ than lò rèn tôi cảm nhận được cái ấm cúng thương yêu của đôi vợ chồng lao động già: vài củ khoai nướng, ấm chè xanh hãm nóng bên than hồng. Dù mới 12, 13 tuổi tôi đã ao ước được sống như vậy. Hồi đó tôi nói với ba me tôi lớn lên tôi sẽ làm nghề thợ rèn, ngồi thụt bệ cho chồng bên bếp than hồng. Giấc mơ tuổi nhỏ đó của tôi làm cả nhà ai cũng cười và bảo: “để rồi xem”. Bây giờ nhớ lại, tôi cũng thấy buồn cười, đồng thời cũng thấy xao xuyến nhớ nhung về một mối quan hệ thân thương đã trở thành dĩ vãng.
Những ngày cuối tháng giêng năm Mậu Thân, khi quân Cộng Hòa và quân đồng minh (Mỹ - Đại Hàn) tái chiếm Vỹ Dạ và quân Cộng Sản rút đi. Cuộc chém giết đã diễn ra trên từng thước đất, từng khu vườn, từng khu nhà, từng dãy xóm. Môt số dân làng theo quân Cộng Hòa chạy ngược về phía Đập Đá. Một số khác chạy lui về phía chợ Vỹ Dạ theo cánh du kích... Gia đình tôi chạy về phía Đập Đá. Gia đình bác thợ rèn chạy về phía chợ Vỹ Dạ. Tôi xa vợ chồng bác thợ rèn từ đó. Xin mở một ngoặc đơn ở đây: một đôi vợ chồng già làm nghề thợ rèn song lại có nhiều kiến thức về văn học và sử học để có những câu chuyện kể làm hấp dẫn một đứa trẻ lên 10, rồi một cô gái 13, 15, 17 hay thắc mắc nhiều điều như tôi cũng là một điều lạ. Món quà quí báu từ đôi vợ chồng lấm láp tro than kia, tôi không tìm thấy trong bất cứ mối quan hệ nào của tôi tại thôn Vỹ Dạ.
*
Bên cạnh khu vườn yên ắng, tĩnh mịch của cụ Tả là một ngôi vườn cây trái xanh tươi nhưng nhỏ bé hơn. Đó là khu nhà vườn của nhạc sĩ Hồng Nhân.
Khu vườn có mặt tiền không rộng, khoảng cách từ đường cái với hành lang nhà ngắn, nên trông ngôi nhà gần đường hơn các ngôi nhà khác. Tôi gọi khu nhà vườn này là “vườn âm nhạc” vì hầu như tối nào tôi cũng nghe tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng hát vang vọng từ sân thượng.
Cổng khu vườn ít khi đóng kín, chỉ khép hờ. Hàng rào trước của ngôi nhà là những bụi cây hoa dại: cây mắt mèo có gai, cây ngâu, cây dâu tằm, cây keo, chằng chịt những dây leo như bìm bìm, tygôn, cát đằng... Nhiều loại hoa leo nên hàng rào có màu sắc rất sinh động. Hồi còn học ở trường Thế Dạ, mỗi lần đến trường, tôi lén hái những bông cát đằng màu tím vừa nở vào lớp lấy bút chì vẽ thêm mắt mũi để tặng các bạn cùng lớp.
“Vườn âm nhạc” này có hai cây vú sữa mọc chéo nhau hình chữ X, ngã vào hành lang như hai cây côt chống đỡ cho mái hiên hơi thấp. Trong sân mấy thân cau vươn cao, dưới gốc là các loài hoa như yên chi, nức nẻ, trang, lài, ngũ sắc... mọc xen kẽ không theo hàng lối. Một lối đi nhỏ ở giữa vườn trông như một đường mòn trong khu vườn cổ tích. Bên bậc cấp bước lên nhà là hai bụi hải đường xanh mướt, đến mùa đơm hoa những nụ, bông màu hồng nở rộ từ gốc lên tận ngọn. Hoa hải đường đẹp, một vẻ đẹp khỏe khoắn mà kín đáo.
“Khu vườn âm nhạc” có hai người con gái có tên rất ấn tượng đối với tâm trí ngây thơ của tôi: Chi Điền và Ngọc Cầm. Không hiểu tại sao lúc đó tôi rất thích hai cái tên này. Tôi thường bảo me tôi sao không đặt tên cho tôi là Chi Điền hay Ngọc Cầm. Me tôi chỉ cười và bảo tên của con cũng hay đấy chứ!
Thuở đó tôi làm gì có casette, có đĩa để nghe, lâu lâu mới được nghe chương trình âm nhạc thiếu nhi của đài Sài Gòn từ chiếc ra đi ô Philips của ba tôi. Vốn ưa nghe nhạc nên mỗi lần nghe tiếng sáo tiếng đàn từ bên kia đường vọng lại, tôi vội ra ngồi ở gốc cây khế đầu vườn nghe cọp và miên man nghĩ về hai cái tên Chi Điền, Ngọc Cầm. Tôi phác họa khuôn mặt của hai chị trên hoa Cát Đằng giống như khuôn mặt của nàng công chúa trong tâm hồn non dại của tôi.
Thế rồi một ngày kia khu “vườn âm nhạc” của tôi lặng thinh, bởi vì chiến tranh đã đến. Tôi không còn nghe tiếng đàn tiếng hát. Các chị Chi Điền, Ngọc Cầm bỏ thôn Vỹ ra đi. Trong vườn, có lẽ cũng như tôi, hoa lá đang buồn và nhớ nhung những người con gái một đi không trở lại.
*
Thôn Vỹ Dạ còn có khu vườn của các chị Phương Chi, Phương Thảo. Hai người con gái sống trong một ngôi nhà vườn vắng vẻ có ngôi mộ cổ phía trước và một người đàn ông trung niên đãng trí thường hay đi về trên con đường làng mỗi buổi chiều, miệng lẩm bẩm đọc thơ và nói tiếng Pháp.
Hai chị Phương Chi và Phương Thảo là bạn thân của chị cả tôi. Chị
Phương Chi rất hiền và lặng lẽ, giọng nói nhỏ nhẹ, lúc nào đến tôi cũng thấy chị cầm một cuốn sách trên tay. Chị Phương Thảo thì ồn ào vui nhộn, lúc nào cũng ca hát. Cả hai chị đều rất yêu các con mèo của họ. Người và mèo đã trở thành một cộng đồng thân thiết. Bất cứ ai vào nhà cũng thấy bầy mèo quanh quẩn bên hai cô chủ trìu mến. Mèo đen tuyền, mèo trắng tuyền, mèo mướp, mèo khoang cổ và mèo tam thể. Mỗi con có một vẻ đẹp và một đức tính riêng, không thể lẫn lộn con này với con kia. Mỗi lần chúng tôi đến thăm, ngoài chuyện sách vở thi ca và tiểu thuyết, hai chị Phương Chi, Phương Thảo còn say sưa kể chuyện mèo.
Một hình ảnh mà cư dân hai bên đường Vỹ Dạ khó quên được là vào những tối thượng trung tuần, hai người thiếu nữ cùng có chữ lót phản phất hương thơm ấy (phương) ôm hai con mèo đi dạo dưới ánh trăng. Trong tâm thức non dại của tôi ngày ấy: Phương Chi, Phương Thảo chính là hai nhân vật bước ra từ truyện Liêu trai, và Vỹ Dạ chính là miền cổ tích của tuổi thơ tôi.
Có một điều nghịch lí là hai nhân vật cổ tích, liêu trai Phương Chi, Phương Thảo lại có một mặt thứ hai của đời họ rất ư là hiện thực. Trong khu vườn rộng thênh thang của gia đình, ngoài những cây trồng như nhiều khu vườn Vỹ Dạ khác, còn có một phần đất trồng cây lá gai. Giống lá cây gai mà người Huế đã dùng để làm bánh ít đen. Bánh ít đen hay còn gọi là bánh ít lá gai là một đặc sản của Huế kinh kỳ, Huế du lịch xưa và nay.
Bánh ít lá gai là sản phẩm chính của nhà này. Mẹ và dì của hai chị làm các thứ bánh bán cho các hàng bánh bên chợ Đông Ba. Hai người con gái thường nói chuyện văn chương chữ nghĩa và chơi với mèo còn là hai lao động cần mẫn phụ giúp việc cho mẹ và dì. Ngoài bánh ít lá gai họ còn làm thêm các loại bánh măng, bánh mận, bánh su sê (bánh phu thê). Đến gần tết tôi còn thấy các chị ngồi cả ngày gói bánh phục linh xanh đỏ đủ màu và cần mẫn nặn bánh sen tán thành các loại hoa. Tôi cũng học được ít nhiều về cách làm bánh từ mẹ, bà dì và của cả hai chị. Năm 1968 người cậu đãng trí qua đời, cả nhà chuyển vào Nam sinh sống. Ngôi nhà đóng cửa im lìm, hoang lạnh cùng ngôi mộ cổ ngày một thấp dần.
*
Nhắc đến Vỹ Dạ mà không nhắc phủ Tuy Lý Vương là một điều thiếu sót.
Dân ở đây không gọi là Phủ Tuy Lý mà gọi nôm na là phủ Ba Cửa vì giữa một vùng đất rộng, cỏ mọc um tùm quanh năm, chỉ còn cái cổng có ba cửa ra vào đứng hoang liêu với nắng sớm mưa chiều.
Trong vườn phủ cũng đầy cỏ mọc, một ngôi nhà cổ, vài ba cây sứ cổ thụ bông trắng chơ vơ. Khung cảnh tiêu điều vắng vẻ làm ái ngại người viếng thăm. Nhà phủ luôn đóng cửa, thỉnh thoảng mới thấy người đến thắp hương.
Thuở chị Phùng Thăng mang thai, chị về đây tịnh dưỡng. Mẹ tôi thường sai tôi đem biếu chị vài thức ăn nên tôi có dịp ra vào phủ. Quang cảnh nơi đây quá cô liêu, bước chân vào không thể nào không nhớ hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan :
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Phủ chỉ còn lại một ngôi nhà thờ rêu phong, quanh vườn vài cây sứ chơ vơ và chỉ có thế. Phủ ngăn cách vùng đất dân cư chung quanh bởi những bờ rào cây dại và cây keo. Vùng đất phía sau phủ đã trở thành vùng dân cư chòm xóm, có nhà đã lên mái ngói, có nhà chỉ là túp lều tranh.
Năm qua khi tôi trở lại nơi đây, vùng cỏ xanh của phủ năm nào nay đã lấp đầy những ngôi nhà mới, có nơi đã là khu nhà hát Karaoke.
Tôi đi tìm cây sứ trắng, chỉ thấy có mây xám trên khoảng trời hẹp.
*
Qua khỏi phủ Ba Cửa, phía bên kia đường, ngôi nhà tôi hay đứng lặng để nhìn, để chờ trái thị rơi, chờ con khỉ già ngủ gật, là nhà của cụ Bửu Đáp.
Đây cũng là một ngôi nhà vườn khá đặc biệt của thôn Vỹ Dạ. Nhà không quay mặt ra đường (hướng chính Đông) mà quay về phía Tây Nam.
Nhà xây hai tầng nằm trong một khuôn viên cây cối um tùm. Một nhà lục giác nằm ở góc vườn chung quanh trồng các bui hồng lựu và bạch lựu. Trên tường có khảm hình một bầu rượu và hai câu đối chữ Hán mỗi câu bốn chữ. (tôi không đọc được những chữ này). Đây là chỗ ngâm thơ uống rượu của các cụ.
Chiếc cổng cũ kỹ không đóng, lúc nào cũng mở hờ vừa đủ để một người lách qua. Sau cổng, dưới gốc cây thị là một chuồng khỉ, con khỉ già kêu khẹt khẹt khi có người lạ. Đến mùa thị chín, hương thơm ma quái lan tỏa cả một vùng. Đi học về tôi và mấy đứa bạn hay chờ con khỉ ngủ gật là lẻn vào lượm mấy quả thị rụng. Ông bà chủ nhà tỏ ra rất rộng lượng với bọn trẻ mỗi khi bắt gặp chúng tôi vào vườn.
Vườn nhà cụ Bửu Đáp phía trước trồng cây lưu niên như nhãn, mít, thanh trà..., phía sau trồng cau và chay. Cau trong vườn cụ Bửu Đáp được trồng chung với những dây trầu leo quanh, khác với nhà tôi, me tôi trồng trầu leo giàn.
Vào những năm 1960 – 1962 tôi thường theo ba đến nhà cụ Bửu Đáp (hai ông thường hay đàm đạo, uống trà). Thấy cách trồng trầu khác lạ, tôi hỏi, cụ bảo: “đây là cách trồng theo miền Nam, ở Thừa Thiên Huế chỉ có làng Mỹ Lợi là trồng cau và trầu theo cách này. Làng Nam Phổ trồng cau thành vườn, khai mương hai bên và trồng trầu trên giàn như nhà cháu vậy. Ông học cách trồng này từ các người Mỹ Lợi khi họ chèo thuyền lên Huế giao thương”. Vườn nhà cụ Bửu Đáp bỏ phân cho cây bằng rong. Nhà tôi và các nhà khác trong thôn lại bỏ phân cho cây bằng cây cỏ hôi. (chuyện trồng trọt ở thôn Vỹ Dạ ngày trước có lẽ phải viết một chương dài).
Bến nhà cụ Bửu Đáp cũng rất lạ, đường xuống bến hẹp, dốc lở, kê vài viên đá tảng để làm lối đi. Dây leo chằng chịt, chiếc cổng luôn khép hờ. Một tảng đá khá lớn kê ngay dưới gốc cây cừa với nhiều rễ phụ buông xuống, là nơi ba tôi và cụ hay ngồi câu cá.
Nhà cụ rộng rãi nhưng vắng người, vật dụng trong nhà bày biện đơn giản nhưng rất ngăn nắp.
Vườn cụ không trồng hoa, chỉ duy nhất một gốc mai lớn ở giữa sân, cụ thường bảo trồng hoa phải chăm bón nhiều mà cả hai cụ đều lớn tuổi không đủ sức chăm bón kỹ được thì tội cho hoa. Tôi yêu lời nói này biết chừng nào...
Ba tôi mất sớm. Thỉnh thoảng tôi được mẹ sai mang gói trà, hộp mứt xuống biếu ông bà cụ.
Bà cụ mất, bạn bè cũng xa dần. Đôi lúc qua nhà tôi thấy ông cụ yên lặng nói chuyện cùng con khỉ già. Thế rồi cụ cũng mất vào năm 1974.
Cách đây hai năm tôi có trở lại nơi này, ngôi vườn trở thành nơi buôn bán vật liệu xây dựng, cát sạn, xi măng, gạch ngói ngổn ngang trên một bãi đất lầy lội từ đường cái ra đến bến sông. Cái nhà lục giác được xây lại to hơn, bình rượu trên tường được đắp lại to hơn, hai câu đối mỗi câu bốn chữ nay còn lại ba chữ.
*
Càng đi lần về phía chợ, từ Phủ Ba Cửa đến đường xóm đi vào chùa Phước Huệ, các khu vườn hình như hẹp hơn, có lẽ chủ nhân không phải là danh gia vọng tộc. Phía bên kia đường cũng vậy, nhiều nơi đã trở thành khu dân cư chòm xóm.
Cấu trúc vườn, nhà và cả cây trồng không giống khu vực phía trên. Đa số các vườn không trồng cây lưu niên mà trồng các giống cây ngắn ngày mới du nhập về như: táo trái nhỏ cành có gai, trướng gà, trứng cá (hay gọi là cây cheri), thơm victoria, chuối Đồng nai... và các loài hoa cũng mới du nhập như: móng bò, tử vi, trúc đào, hoa giấy (đa phần cổng nhà nào khu vực này cũng trồng hoa giấy màu đỏ tím, màu trắng). Có nhà đã xây theo kiểu mới mái bằng, hoặc xây gian nhỏ kề nhau hình ống.
Con gái ở đây cũng có những cái tên mới lạ hơn: Xuân Lộc, Xuân Đài. Mỹ Liên, Mỹ Linh, Việt anh, Mỹ Anh...
Nhà cô Hoàng Thị Kim Cúc, cô giáo dạy gia chánh trường Đồng Khánh (nàng thơ của Hàn Mạc Tử) cũng ở trong khu vực này. Nhà cô ở phía bờ sông cạnh rạp hát tuồng Vỹ Dạ. Thời đi học tôi hay về nhà cô. Đây là khu vườn nhà vừa phải không bề thế cũng không rộng. Vì ở cạnh bức tường lớn của rạp hát nên nhà cô kém vẻ xanh mát (thế nhưng dưới mắt nhà thơ, nơi ở của người đẹp vẫn “mướt quá xanh như ngọc”).
Trong sân nhà cô, tôi nhớ nhất là một gốc dương liễu già xù xì, hai cây trứng gà mọc hai bên lối đi vào. Nhà cô Hoàng thị Kim Cúc không trồng cau nhưng trồng nhiều loại hoa nho nhỏ trông rất đáng yêu: Hoa tỷ muội, hoa tiểu cúc (cúc vàng loại nhỏ), hoa yên chi...
Hàn Mạc Tử trong bài thơ nổi tiếng “Đây thôn Vỹ Dạ” mô tả nàng thơ trong bối cảnh đặc thù và không gian chung của thôn Vỹ chứ không mô tả cảnh vườn nhà cô Cúc. Vườn nhà cô Cúc không có nắng hàng cau, không có lá trúc che nghiêng, không có hoa bắp lay... Cô Cúc ngoài khuôn mặt chữ điền và những nét đẹp đã nhập thể trong từng câu, từng chữ của bài thơ như thi sĩ đã cảm nhận, còn nổi tiếng trong cư dân Vỹ Dạ là “người con gái tinh khôi” luôn mặt áo trắng, áo lam, từ dáng đi, giọng nói, cử chỉ luôn thể hiện vẻ khoang thai, từ tốn, dịu dàng, đoan hậu của một nữ cư sĩ Phật giáo. Cô Cúc còn nổi tiếng có kiến thức sâu rộng về ẩm thực Huế về tài nấu nướng và sắp xếp việc nhà. (cô đã xuất bản hai tập “Những món ăn nấu lối Huế” tập I và tâp II, nhà in Tân Dân 41 đường Gia Hội năm 1945)
*
Bắt đầu từ cầu Hương Lưu bắt qua cồn Hến, đến chợ Mới (nay là chợ Vỹ Dạ) khu vực này đã phố thị hóa, nhà mặt tiền thường là các cửa hàng hay tiệm buôn nhỏ. Ở đây thời bấy giờ có một tiệm sửa đông hồ, một tiệm sửa xe đạp, một nhà may, một tiệm thuốc bắc, đến khu chợ thì có thêm nhiều nhà bán hàng tạp hóa, một gian hàng guốc mộc, đôi ba quán rượu lẻ và thuốc cẩm lệ. Khu vực này không có vườn.
Những người con gái nơi đây đã có những cái tên bình dân, gọn gàng dễ gọi như Hồ thị Quảng, Nguyễn thị Thới, Nguyễn thị Thân, Lê Thị Bưởi, Hầu thị Thiếu...
Từ ngã rẽ qua Cầu Ông Thượng, về đến chùa Ba La Mật, các khu nhà vườn lại có những nét riêng không giống với qui hoạch và cấu trúc vườn nhà của các mệ, các cụ tôi đã mô tả ở phần đầu. Phần đông nhà nơi đây xây theo kiến trúc Tây cổ, nhà có hiên trước rộng, tầng cấp cao, cửa gỗ hai lớp (lớp lá sách, lớp gương). Có sân và có vườn. Sân trước trồng các loại hoa thấp như hải đường, ngâu, lài, hòe, sói, có nơi trồng chậu, có nơi trồng trong bồn xi măng, sân thường rải đá cuội. Vườn chung quanh trồng các loại cây ăn trái như nhãn, vải, khế, thanh trà... và trước ngõ hầu như nhà nào cũng có vài cây cau.
Khu vực này tên người đẹp thường có chữ lót là Diệu: Diệu Chi, Diệu Thơ, Diệu Huyền... Tôi nhớ hồi còn học tiểu học, mỗi chiều anh tôi thường hay dẫn tôi ra ngõ để nhìn các chị Diệu Chi, Diệu Thơ đạp xe đi học về với “vành nón che nghiêng nửa vầng trăng”. Một thời thật đẹp và thơ mộng.
*
Thôn Vỹ Dạ còn một ngôi nhà vườn nổi tiếng không những vì vườn đẹp mà chủ nhân ngôi nhà lại là một thi nhân, đứng đầu Hương Bình thi xã: cụ Ưng Bình Thúc Giạ. Vườn nhà cụ đối diện với chùa Ba La Mật. Đây là ngôi nhà rường có sửa sang đôi chút, nhà chính có ba gian hai chái với cột kèo bằng gỗ, chạm khắc, sơn son thếp vàng. Các đố vách chung quanh được thay bằng tường xây và trổ cửa sổ. Nền nhà được nâng cao và lát gạch hoa. Thập niên 1960 ngôi nhà được trông nom bởi bác Bửu Kỉnh, con trai của cụ Ưng Bình. Nhà quay mặt về hướng Tây Nam thay vì hướng chính Đông như hầu hết các ngôi nhà ở đây.
Cổng và hàng rào phía trước là một hàng tre la ngà, thân cây màu vàng tươi và lá thì xanh thẫm.
Trong vườn ngoài những cây cổ thụ như nhãn, vải, vú sữa, còn có những cây mảnh mai hơn như lựu, hồng, táo...
Vườn còn trồng nhiều loại hoa: Mai, Hải đường, Cúc vàng... Cảnh quang nơi đây đầy màu sắc tựa khu vườn trong Bích Câu kỳ ngộ:
Đua chen thu cúc xuân đào Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông.
Ngày nay trở lại nơi này, không còn tìm ra dấu vết của khu vườn “Bích Câu” năm nào, sao mà lòng thấy xuyến xao.
Nhắc đến vườn nhà của một nhà thơ đã từng là chủ soái một Tao đàn nổi tiếng không những khắp vùng sông Hương núi Ngự làm tôi nhớ đến câu hò đã một thời làm xao xuyến lòng người:
Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông Thuyền ai thấp thoáng bên sông Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Nhớ được mấy câu hò mà chẳng ghi lại một bài thơ của một thi bá là “tội” không thể tha thứ. Tôi chắp tay cầu xin hương hồn cụ Ưng Bình lấy tấm lòng rộng lớn của một vị trưởng giả, một cư sĩ Phật giáo mà xá tội cho một nữ nhân hậu thế thô thiển, vô tình, chỉ cảm nhận được đôi phần của sự việc mắt thấy tai nghe.
*
Lời cáo lỗi của tôi cũng gởi đến một Vỹ Dạ to lớn, đẹp đẽ, cao quí và phong phú gấp nhiều lần những gì còn đọng lại trong ký ức một kẻ không học văn, không làm nghề văn chương chữ nghĩa, một người cả một đời lao động đầu tắt mặt tối mới có được mấy ngày thư thả sau khi nghỉ hưu. Bởi Vỹ Dạ không chỉ có mộng mơ và mộng mơ của Vỹ Dạ không phải là tất cả trong những dòng ký ức này. Vỹ Dạ còn có tầng cao, tầng sâu và mặt trái của tồn tại. Cho dù Vỹ Dạ như thế nào, Vỹ Dạ mộng mơ, Vỹ Dạ thực dụng, Vỹ Dạ sáng, Vỹ Dạ tối, Vỹ Dạ mạnh, Vỹ Dạ yếu, Vỹ Dạ tốt, Vỹ Dạ xấu ... cũng đã sinh sản, nuôi dưỡng và un đúc nên tôi. Tôi có trong tất cả các mặt, các chiều, các cực của cái thôn nổi tiếng, đa đoan và vang bóng một thời này.
Nguyễn Thị Kim Thoa
Lời người viết:
Tôi xin gởi đến các vị chủ nhân những cái tên, những ngôi nhà, những khu vườn tôi đã trân trọng và quí mến nhắc đến trong mấy trang ký ức này lời xin lỗi vì đã không xin phép.