Sunday, August 30, 2015

Hiểu nghĩa Phật A Di Đà





A Di Đà là tiếng Ấn Độ, dịch sang tiếng Hán, A dịch là Vô, Di Đà dịch là Lượng. A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng. Thông thường chúng ta gọi Ngài là Vô Lượng Thọ Phật hoặc Vô Lượng Quang Phật; thật ra, Thọ và Quang chỉ là một phần trong vô lượng mà thôi. Không có cách nào diễn đạt hoàn toàn những nghĩa lý trong danh hiệu đức Phật. Trên thực tế, hai chữ Vô Lượng hết sức hay...

....Bản dịch đời Đường đề tên kinh này là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, nay kinh mang tên này (Phật Thuyết A Di Đà Kinh) là dùng danh hiệu của vị Phật mà mọi người thích nghe [để đặt tên]. Hơn nữa, đối với hết thảy công đức, hễ nói “Phật” thì sẽ trọn đủ).

“Tam thế” (bất dịch)  là đời quá khứ, đời hiện tại, và đời vị lai. “Dịch” (là biến đổi. 
 Thường là ba đời chẳng thay đổi, hết thảy chư Phật đều nói như thế nên gọi là Thường)

“Pháp” có nghĩa là siêu việt không gian. Hết thảy hữu tình chúng sanh trong mười pháp giới đều phải nương theo quỹ đạo này. “Pháp” có nghĩa là “quỹ đạo” (đường lối nhất định) hay quy tắc, giống như xe lửa nhất định phải chạy trên đường rầy, chẳng thể rời khỏi đường rầy. Đường rầy ấy là Pháp. Chữ Pháp này được hiểu theo nghĩa hẹp, chứ không phải là nghĩa rộng, nhằm chỉ điều gì? Pháp chỉ cho Kinh - Luật - Luận Tam Tạng kinh điển.

Quán là xuyên suốt, xếp đặt mạch lạc những nghĩa lý đáng nên biết. Nếu không có văn tự sẽ không có gì để sắp đặt mạch lạc những nghĩa lý sao cho rõ ràng để có thể thấy được, nên gọi là Quán.

“Quán” (): Đối với ngôn ngữ, văn từ, hiện thời chúng ta nói tới “chương pháp”, tức là kết cấu, tổ chức có thứ tự, không lộn xộn, đấy là ý nghĩa của chữ Quán. Trong ngôn ngữ văn tự bao hàm những đạo lý, hiện thời chúng ta gọi những đạo lý ấy là “tư tưởng tinh nghiêm” hoặc “tư tưởng kín nhiệm”, đó là dùng ý nghĩa thế gian để nói. Thật ra, Phật pháp lìa khỏi tâm ý thức, chẳng thuộc vào tư tưởng, nhưng những đạo lý trong ấy quả thật có tầng lớp, thứ tự, có hệ thống mạch lạc, chẳng rối ren một tí nào, Lý và Sự đều là như thế.

Tuy trong toàn bộ vũ trụ, tâm la vạn tượng là vô lượng, vô biên, nhưng chẳng loạn. Người thế gian trông thấy tình hình này cảm thấy lạ lùng, [tin rằng] nhất định có người nào đó sắp đặt. Nếu không có ai sắp đặt, vì sao chúng có trật tự tốt đẹp dường ấy? Ai sắp đặt? Do vậy, bèn vọng tưởng cho rằng nhất định phải có một vị thần, có một Thượng Đế sắp xếp. Thật ra, họ chẳng biết vạn pháp vốn có sẵn trật tự. Trong kinh điển, đức Phật dạy chúng ta vũ trụ hình thành, phát triển theo thứ tự thuận, chẳng rối loạn. Từ nhất niệm Chân Như bổn tánh bất giác mà có vô minh. Vô minh bất giác sanh ra Tam Tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng Lục Thô phát triển theo từng tầng một, chẳng loạn! 

Nam Mô Phật A Di Đà

trích dẩn: http://www.niemphat.net

Wednesday, August 26, 2015

TẠ ƠN MẸ - THANKS, MOM


TẠ ƠN MẸ

Khi mà bạn có Mẹ hiền
Chăm lo cho bạn ngày đêm an phần

Những gì bạn muốn bạn cần

Mẹ hoan hỉ giúp, xả thân chẳng phiền.

Khi mà bạn có Mẹ hiền
Cảm thông cùng bạn mãi thêm tuyệt vời

Bạn dù gặp cảnh buồn đời

Mẹ làm bạn nở nụ cười an nhiên.


Khi mà bạn có Mẹ hiền

M thường vững chí lại thêm can trường

Dù muôn chướng ngại cản đường

Tỏ cho bạn thấy Mẹ thường tự tin.

Khi mà bạn có Mẹ hiền

Mục tiêu cuộc sống vươn lên hàng ngày

Bao gồm cả bạn trong đây

Bạn thời may mắn tràn đầy bạn ơi.

Ai mà có Mẹ vậy rồi

Trưởng thành thoải mái, cuộc đời lên hương

Kiên cường, mạnh mẽ, thân thương

Nhờ bàn tay Mẹ dễ dàng thành nhân.

Tạ ơn Mẹ quý vô ngần
Tấm gương hiền mẫu tuyệt luân rạng ngời.


Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(chuyển ngữ)

Mùa Vu Lan 8-2015               




THANKS, MOM

When you have a mother
who cares so much for you
that anything you want
becomes her desires.

 
When you have a mother
who is so understanding that
no matter what is bothering you
she can make you smile.

 
When you have a mother
who is so strong that
no matter what obstacles she faces
she is always confident in front of you.

 
When you have a mother
who actively pursues her goals in life
but includes you in all her goals
you are very lucky indeed.

 
Having a mother like this
makes it easy to grow up
into a loving, strong adult.

 
Thank you for
being this kind
of wonderful
mother



Suan Polis Schutz


Sunday, August 23, 2015

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương


Tiểu Sử

Phạm Đình Chương (1929 – 1991) là một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc Việt từ 1950 trở đi. Riêng về lãnh vực sáng tác, ông được coi một tên tuổi lớn của tân nhạc Việt Nam. Ngoài ra ông còn là một ca sĩ của ban hợp ca Thăng Long với biệt hiệu là Hoài Bắc.

 

 Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc, cả hai thân sinh ra ông đều chơi nhạc cổ truyền. Thân phụ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.

 

Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.

 

 Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.

 

 Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 18 tuổi, với tác phẩm đầu tay là ca khúc Ra đi khi trời vừa sáng. Năm 1951 ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng ông thành lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Trong thập niên 50, ông đã viết những tác phẩm thành công và để đời như Ly Rượu Mừng, Xuân tha Hương, Thủa Ban Đầu, Tiếng Dân Chài v.v.. Đáng kể nhất là trường ca bất hủ Hội Trùng Dương mà ông viết về đất nước Việt Nam hoa gấm, qua ba bài ca nói về con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Theo như lời ông đã nói với gia đình, trường ca này đã phải tốn mất 4 năm để hoàn tất.

 

 Một sáng tác lãng mạn và để đời thứ hai trong thập niên 50 đã gắn liền vào tên tuổi Phạm Đình Chương, đó là ca khúc bất hủ phổ thơ  Đinh Hùng nhan đề Mộng Dưới Hoa. Riêng nói về Mộng Dưới Hoa, ca khúc này đã theo năm tháng để trở thành một trong những bài tình ca được ưa chuộng và hát nhiều nhất của nhạc Việt. Qua khía cạnh chuyên môn, nhất là về lãnh vực nhạc phổ từ thơ, ta cứ đọc phần phê bình và ca ngợi của nhạc sĩ Vũ Thành sau đây. Nhạc sĩ Vũ Thành viết: ” Tác phẩm thành công nhất của Phạm Đình Chương, theo tôi, là Mộng Dưới Hoa, thơ Đinh Hùng phổ nhạc. Nét đặc thù của tác phẩm này là hơi nhạc tuy rất Việt Nam, mà lại được viết theo âm giai tây phương, chứ không cần đến ngũ cung như hầu hết các sáng tác có âm hưởng thuần túy Việt Nam khác. Ngoài ra, Mộng Dưới Hoa còn đặc biệt ở điểm rất cân đối và được cấu tạo như cung cách một bản nhạc “mẫu” trong các sách giáo khoa về sáng tác. Mộng dưới hoa còn đáng được coi là một kỳ công vì phổ nhạc vào thơ Việt Nam là một việc cực khó. Người phổ nhạc chẳng những phải lệ thuộc vào số chữ mà còn phải lựa cung bậc cho đúng luật bằng trắc của bài thơ, không như trường hợp phổ nhạc thơ Pháp hay thơ Anh, chỉ cần theo đúng số chữ mà thôi. Vì vậy, thường thường các bài thơ Việt Nam được phổ nhạc đều viết theo thể tự do, không gò bó, thì mới theo sát được [âm] bằng trắc của từng chữ. Làm theo thể mẫu hết sức cân đối mà vẫn giữ đúng được bằng trắc của từng chữ, ta phải ngả nón trước Phạm Đình Chương.”

 

Trong thập niên 60, ông đã sáng tác một loạt ca khúc phổ thơ rất thành công và được yêu chuộng như Nửa Hồn Thương Đau, Ngợi Ca Tình Yêu và Đêm Màu Hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền), Khi Cuộc Tình Đã Chết (Du Tử Lê), Người Đi Qua Đời Tôi (Trần Dạ Từ) và nổi bật nhất là ca khúc Đôi Mắt Người Sơn Tây (Quang Dũng). Từ đó, Phạm Đình Chương thường được cho là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Giai đoạn này cũng là lúc ông lập ra phòng trà tên gọi Đêm Màu Hồng và với ban hợp ca Thăng Long, đã biến nơi này thành chỗ hội tụ của các văn nghệ sĩ đương thời.

 

 Sau biến cố 1975, Phạm Đình Chương vượt biên sang định cư tại California, Hoa Kỳ vào năm 1979. Ông định cư tại quận Cam cùng gia đình từ đó. Tại khoảng thời gian sống tại Hoa Kỳ, ông đã viết một số ca khúc cuối cùng, gồm những tác phẩm phổ thơ như Đêm Nhớ Trăng Sài gòn, Quê Hương Là Người Đó, Khi Tôi Chết, Hãy Đem Tôi Ra Biển (phổ thơ Du Tử Lê), Hạt Bụi Nào Bay Qua (Thái Tú Hạp) v.v.. Ngoài ra, ông đã hoạt động rất thàng công qua những buổi trình diễn tại các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.

 

 Vào mùa hè năm 1991, ông lâm bệnh và mất đi vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại quận Cam, California, hưởng dương được 62 tuổi. Theo như gia đình ông kể lại, sau khi người anh của ông là nghệ sĩ lão thành Hoài Trung qua đời tám năm sau đó, vào năm 1998, vào một buổi sáng nắng ấm tại miền nam Cali, gia đình ông đã đem cốt của hai ông và rải ngoài biển, như trong một ca khúc ông viết trong thời gian cuối cùng, nhan đề “Khi Tôi Chết, Hãy Đem Tôi Ra Biển”, phổ từ thơ thi sĩ Du Tử Lê.

(Theo http://phamdinhchuong.com/)

 

1

 

hopcathanglong.jpg

Ban hợp ca Thăng Long

 

VN_BanHopCa_ThangLong_HoaiBac_PhamDinhChuong_ThaiThanh_HoaiTrung.jpg

Từ trái qua: Hoài Bắc Phạm Ðình Chương, Thái Thanh, Hoài Trung.

 

 

2

 

NuaHonThuongDDau1_PDC.jpg

 

3

 

IMG.jpg

 

 

4

 

truongca_hoitrungduong.jpg

 

 

Bích Huyền

Saturday, August 22, 2015

Tấm lòng của đứa con đi xa

Ngày Vu lan và hai câu thơ về đứa con tha hương về tấm lòng của mẹ
Hôm qua, ngày Vu lan. Cũng rất tình cờ, có việc tôi đã đi đến thăm nhà một người bạn. Trên bàn thờ song thân đặt sau bàn thờ Phật, anh treo hai cấu đối chữ nho sau:

Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy

Dịch nghĩa:
Ai nói tấm lòng như mấy tấc cỏ non này
có thể báo đáp được lòng mẹ như ánh nắng ấm áp của ba tháng mùa xuân.

Đây là hai câu kết của một bài thơ trong Đường thi:

Du tử ngâm
Tác giả: Mạnh Giao

Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy

Dịch nghĩa:

Tấm lòng của đứa con đi xa

Người mẹ hiền cầm trên tay sợi chỉ
Khâu vá chiếc áo cho đứa con lên đường đi xa
Khâu chăm chút từng đường kim múi chỉ
Mãi băn khoăn không biết bao giờ đứa con mình trở lại
Ai có thể nói tấm lòng mấy tấc cỏ non này
Báo đáp được lòng mẹ như ánh nắng ấm áp của ba tháng mà xuân.

Du tử ngâm của Mạnh Giao với những lời lẽ giản dị đã đi vào lịch sử thi ca như một một tuyệt tác ca ngợi lòng mẹ trong cổ học tinh hoa. Đặc biệt, cụm từ "Thốn thảo tâm" (tấm lòng như tấc cỏ) hay "Tam xuân huy" (ánh sáng ba tháng mùa xuân làm cỏ cây đêm chồi nẩy lộc) đã trở thành điển tích trong văn học, khi muốn nói đến chỉ tấm lòng của đứa con hay nói đến những đấng sinh thành.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã dùng những điển tích này đã nói lên tâm trạng muốn báo hiếu cha mẹ của Thúy Kiều:

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

Riêng tôi, tôi như đang thấu hiểu được, cảm nhận được từng lời trong một bài thơ giản đị. Hai câu đối chữ nho về "tấc cỏ", "ba xuân" đã gợi cho tôi một kỷ niệm xưa khi mẹ tôi đưa cho tôi hai cái kim và một cuốn chỉ lúc lên đường du dọc

Huỳnh Mùi



Wednesday, August 19, 2015

Cô gái Việt thành lập quỹ trao học bổng cho trẻ em nghèo hiếu học Việt Nam

Là cuộc thi sắc đẹp dành cho người Mỹ gốc Á lâu đời nhất ở Hoa Kỳ, cuộc thi Miss Asian Global and Miss Asian America (tạm dịch: Hoa hậu châu Á Toàn cầu và Hoa hậu châu Á tại Mỹ) do bà Rose Chung, một cựu Hoa hậu Chinatown USA, sáng lập, đã tổ chức đêm thi lần thứ 30 vào ngày 8 tháng 8 vừa qua tại Cung Sân khấu Nghệ thuật ở San Francisco.
Trong số 23 thí sinh xuất sắc nhất đến từ nhiều nền văn hóa trong cộng đồng châu Á, bà Rose Chung đã giới thiệu với VOA ba thí sinh người Mỹ gốc Việt nổi bật có mặt trong cuộc thi 2015. Trò chuyện với VOA một vài ngày trước khi diễn ra cuộc thi, Jessica Trần, thí sinh được trao vương miện Hoa hậu Cộng đồng năm 2015, đã chia sẻ câu chuyện của riêng mình về một tổ chức khuyến học do cô sáng lập năm cô 18 tuổi.
9x gốc Việt thành lập tổ chức trao học bổng cho trẻ em nghèo hiếu học VN
Thuộc thế hệ 9x sinh ra và lớn lên tại Mỹ nhưng Jessica Trần, cựu Hoa hậu Áo dài Bắc Cali 2010, khiến nhiều người không khỏi bất ngờ vì khả năng nói tiếng Việt rất trôi chảy và lưu loát của cô. Cô chia sẻ:
““Jessica sinh ra và lớn lên ở miền bắc California ở thành phố Santa Clara. Jessica cũng đi học ở đó từ nhỏ đến lớn. Hồi năm 2013 Jessica tốt nghiệp cử nhân ngành Tâm lý học và Truyền thông ở trường đại học Santa Clara University. Sau đó Jessica đi làm ở công ty Apple Incorporated và hiện nay cũng đã làm được hơn một năm rồi."
Cô cho biết tiếp:
"Từ nhỏ đến lớn ba mẹ đã cho em đi học ở trung tâm Việt ngữ Văn Lang, một trường ở Bắc Cali, San Jose, đi học từ 6 tuổi và đã học viết và đọc. Ngoài ra ở nhà lúc nào Jessica cũng nói tiếng Việt với gia đình. Từ 6 tuổi thì ngày Chủ nhật hàng tuần là học sinh đến trường đó. Trường đó thì tất cả thày giáo đều volunteer (tình nguyện) dạy học sinh nói tiếng Việt. Khi Jessica học đến năm 12,13 tuổi thì Jessica ra trường rồi trở lại để phụ giáo, rồi sau đó trở thành giáo viên ở trường Việt ngữ đó luôn.”
Sự trân trọng hướng về mảnh đất nơi cha mẹ cô từng sinh sống không chỉ dừng lại tại đó. Vào năm 18 tuổi, sau khi đăng quang cuộc thi Hoa hậu Áo dài Bắc Cali năm 2010, Jessica Trần đã có cơ hội về Việt Nam cùng với mẹ mình và tìm hiểu về cuộc sống của những trẻ em nghèo tại đây. Vì ngưỡng mộ ý chí và sự quyết tâm của những em nhỏ ở Việt Nam này, trở về Mỹ sau chuyến đi, Jessica Trần đã thành lập một tổ chức trao tặng học bổng cho trẻ em nghèo hiếu học và học giỏi ở những vùng quê ở Việt Nam có tên gọi là Golden Hearts, tạm dịch: Những trái tim vàng.
Để thực hiện việc trao các suất học bổng như vậy, Jessica đã có những chuyến đi về Việt Nam trong suốt sáu năm vừa qua. Những chuyến đi đã đưa cô đi dọc miền đất nước. Từ miền Tây trở ngược ra miền Bắc, rồi quay lại miền Trung, miền Nam, rất nhiều nơi trên dải đất hình chữ S đều đã in dấu chân của cô gái trẻ này. Càng đi, cô càng học hỏi được nhiều điều từ những con người mà cô có dịp gặp gỡ:
“Mình học hỏi được từ các bạn nhỏ này là sự quyết tâm và cố gắng trong khi hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nhưng họ lúc nào cũng cố gắng vươn lên. Jessica thấy điều đó rất đáng quý và ngưỡng mộ.”
Trong số rất nhiều những gương mặt nhận được học bổng mà quỹ Golden Hearts trao tặng từ khi thành lập, Jessica chia sẻ về một trường hợp ở Tiền Giang mà cô ấn tượng sâu sắc:
“Hồi tháng 2 năm 2015 vừa qua, Jessica cũng vừa mới hoàn thành một chuyến về Việt Nam. Jessica gặp được một cô bé nhỏ tên là Trâm. Bé Trâm đang bệnh AIDS và mẹ bé Trâm cũng bệnh AIDS còn ba thì qua đời rồi. Nhưng bé Trâm học rất khá. Bé Trâm là một trong những hoàn cảnh mà Jessica thấy quý nhất vì em đang mắc một căn bệnh không chữa được nhưng vẫn cố gắng học hành. Tâm nguyện của bé Trâm là tiếp tục đi học và đó là một trong những câu chuyện Jessica từng kể cho bạn bè ở đây. Hội Golden Hearts cũng đang giúp đỡ bé Trâm hàng tháng. Thì đó là một trong những hoàn cảnh gần đây nhất mà Jessica thấy rất đáng để mà quý.”
Để duy trì được nguồn quỹ học bổng, Jessica hằng năm tổ chức một chương trình có tên gọi Đêm Hội ngộ Những Tấm lòng vàng (ĐHNNTLV) ở thành phố San Jose, tiểu bang California. Cô cho biết:
“Đó là đêm người ta mua vé, đến ăn, và xem văn nghệ trong đêm đó. Trong đêm sẽ có những phần đấu giá, mua vé số rút thăm trúng thưởng v..v.. để quyên góp tiền cho quỹ. Chương trình này thực sự ra phải nhờ rất nhiều sự ủng hộ, tình nguyện của mọi người. Tất cả mọi người đều góp một bàn tay để làm nên một ĐHNNTLV thành công.”
Sau sáu năm liên tục tổ chức các đêm quyên góp quỹ, Jessica chia sẻ về thành quả lớn nhất mà Golden Hearts đã đạt được:
“Thành quả lớn nhất thì chắc là phải nói đến năm nay, 2, 3 tháng trước. Jessica mới vừa tổ chức xong một ĐHNNTLV. Trong năm nay ban đầu trong khi lên kế hoạch Jessica rất bận rộn chạy vòng vòng và lo sợ trong lòng. Tại vì năm nay thời gian trùng vào mùa nghỉ hè, nhiều người bận dẫn gia đình đi chơi xa cho nên Jessica sợ là chương trình sẽ không thành hình. Nhưng cuối cùng thì ĐHNNTLV rất thành công vì ngoài việc có rất nhiều khách người Việt đến thì còn có nhiều khách Mỹ, đến dự họ rất thích và ngưỡng mộ cách tổ chức chương trình của nhóm người trẻ. Và có rất nhiều tình nguyện viên đến. Đêm gây quỹ số lượng khách đến tham dự khoảng 400 người và Jessica rất vui vì nhận được những lời khen ngợi và yêu thích từ những người khách đi lần đầu. Họ rất ủng hộ mục đích của chương trình ĐHNNTLV.”
Những thành quả mà tổ chức có quy mô nhỏ Golden Hearts do cô gái trẻ Jessica Trần đồng sáng lập đạt được có lẽ sẽ không thể trở thành hiện thực nếu không có sự kiên trì, bền bỉ của bản thân cô cùng với sự ủng hộ từ gia đình và bạn bè:
“Thực ra khi mới bắt đầu thì Jessica cũng nghĩ mình còn rất nhỏ, làm sao có thể làm được một dự án lớn như thế này. Nhưng lúc nào cũng có mẹ Jessica đứng kế bên để ủng hộ, khích lệ và giúp đỡ rất nhiều. Jessica chỉ biết là mình cố gắng hết sức của mình. Mình xin được bao nhiêu và được bao nhiêu người ủng hộ thì mình có bao nhiêu đó để cho những trẻ em nghèo. Trong thời gian vừa đi học, vừa đi làm bán thời gian, vừa tổ chức một chương trình như vậy thì thời gian của Jessica rất hạn lượng. Nhiều lúc cảm thấy rất căng thẳng và không biết mình có thể tiếp tục được hay không, muốn bỏ cuộc. Nhưng vì sự ủng hộ mà mọi người dành cho Jessica trong những năm vừa qua, cứ mỗi năm khi đến mùa tổ chức chương trình thì có rất nhiều người đến hỏi giúp đỡ, góp một bàn tay. Vì sự ủng hộ đó mà Jessica thấy rất phấn khởi để tiếp tục mỗi năm gây quỹ để mà có thể giúp cho những trẻ em nghèo.”
Dành ít nhất 60 tiếng một tuần cho công việc tại tập đoàn Apple và rất nhiều thời gian cho việc tổ chức chương trình gây quỹ học bổng với Golden Hearts, Jessica cho biết cô chấp nhận phải cắt bớt rất nhiều thời gian cá nhân như đi chơi và cũng thừa nhận gặp không ít căng thẳng. Tuy nhiên, niềm vui có được từ việc tạo điều kiện cho những em nhỏ nghèo hiếu học ở Việt Nam được tiếp tục cắp sách tới trường đã trở thành nguồn độc lực cho Jessica Trần tiếp tục thực hiện ước mơ và nguyện vọng của cô với Golden Hearts.
Ngoài mục tiêu tiến thân trong sự nghiệp, cô gái Jessica Trần còn nuôi trong mình một ước mơ khác:
“Ngoài ra một ước mơ là một ngày nào đó có thể mở được một quán cà phê vì Jessica rất mê uống cà phê. Và quán cà phê đó có phong cách người Ý, lãng mạn sang trọng, yên tĩnh có những bài nhạc hay. Mỗi ly cà phê của khách thì có thể trích ra một phần quyên góp cho quỹ Golden Hearts để có thể tiếp tục giúp đỡ các trẻ em nghèo hiếu học bên Việt Nam. Đồng thời Jessica mong có thể tiếp tục mở rộng, phổ biến Golden Hearts đến thêm nhiều người trên thế giới, mong có thể được nhiều người ủng hộ thêm.”
Cuộc thi Hoa hậu châu Á Toàn cầu và Hoa hậu châu Á tại Mỹ đã khép lại hôm 8/8 tại San Francisco. Vương miện Hoa hậu châu Á Toàn cầu đã thuộc về Pamela Lagera và thí sinh Stephanie Lin đoạt giải Hoa hậu châu Á tại Mỹ. Và Jessica Trần được trao giải Hoa hậu Cộng đồng
.

Saturday, August 15, 2015

Từ bỏ ngai vàng, vua Trần Nhân Tông làm nên huyền thoại Trúc Lâm Yên Tử




 Vua Trần Nhân Tông quyết định rời bỏ cung vàng điện ngọc, xuất gia tu hành trên núi Yên Tử
“Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà.

Từ bỏ ngai vàng xuất gia, vua Trần Nhân Tông làm nên huyền thoại Trúc Lâm Yên Tử.
“Từ bỏ ngôi vua để tu hành
Từ cái nhất thời, cái hữu danh
Vĩnh hằng vô hạn, vua tìm đến
Yên Tử trường xuân hóa đất lành”
Vua Trần Nhân Tông, người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, sau khi nhường ngôi cho con, đã quyết định rời bỏ cung vàng điện ngọc, xuất gia tu hành trên núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, sau là Trúc Lâm Đại sĩ. Cuối đời Ngài tu và tọa hóa tại am Ngọa Vân, Yên Tử, được xưng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Sau khi ngài viên tịch, vâng theo di chúc, thân thể ngài sau 100 ngày được hóa tại Am Ngọa Vân. Pháp Loa, tổ thứ hai của Thiền Phái Trúc Lâm đến tưới nước thơm lên giàn hỏa, thu được ngọc cốt và hơn 3000 viên ngọc xá lợi lấp lánh ánh kim cương…
Chúng ta cùng khám phá những câu chuyện đẹp đẽ thấm đẫm từ bi trên con đường tu luyện và giác ngộ của Ngài và cùng ngẫm về thiên mệnh khi tới thế gian của Ngài.
 
Tâm hướng Phật thời niên thiếu và giấc mộng báo trước cuộc đời tu hành.
Vua Trần Nhân Tông tên huý là Trần Khâm, lúc nhỏ còn có tên là Nhật Tôn hay Kim Phật. Ông là vị vua thứ 3 của triều Trần, con trai trưởng vua Trần Thánh Tông và hoàng hậu Thiên Cảm. Hoàng hậu Thiên Cảm là con gái Trần Liễu, chị em gái của Trần Hưng Đạo.
Ông sinh năm 1258. Lúc mới sinh, Đại Việt sử ký toàn thư đã miêu tả ông là “được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn”, vua Thánh Tông đặt tên cho ông là Kim Phật. Trong phần đề từ của bức tranh “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ” đương thời, hoạ sĩ Trần Quang Chỉ thời Nguyên đã ghi lại “Khi lớn, ngài học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc”.
Trích đoạn thư họa Trúc Lâm Đại Sĩ xuất sơn chi đồ
 
Ông được miêu tả là: “Được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn.” (Ảnh minh họa)
Về Phật Pháp, ông học đạo với Tuệ Trung Thượng Sĩ, được Thượng Sĩ hết lòng hướng dẫn. Ông tâm đắc nhất là câu:
Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc (Quan sát lại chính mình đó là bổn phận, không do người khác làm được).
Tháng 12 năm 1274, ông 16 tuổi, được sắc phong thái tử, kết hôn với con gái của Trần Hưng Đạo là Quyên Thanh công chúa.
Theo “Thánh đăng ngữ lục” thì ông từ nhỏ đã có lòng hướng Phật, không có ý làm vua nên nhiều lần xin nhường ngôi thái tử lại cho em trai mình là Đức Việp, nhưng vua Thánh Tông không chấp nhận. Sau khi kết hôn vài tháng, ông trốn khỏi hoàng cung vào giữa đêm khuya, tá túc ở một ngôi chùa trên Yên Tử. Vua Thánh Tông và hoàng hậu sau khi phát hiện ông biến mất thì vội vàng cho người tìm kiếm, khuyên giải ông về, cuối cùng ông đồng ý trở về.
Sau khi về cung, ông lui tới chùa Tư Phúc, ngôi chùa rất nổi tiếng trong Cấm thành Thăng Long thời Trần.
Hôm ấy tại đó ông nằm mộng thấy từ rốn của mình trổ ra một đoá sen vàng lớn như một bánh xe, trên đó có một đức Phật vàng. Bên cạnh, có người chỉ vào vua mà hỏi: Biết đức Phật này không? Đó là đức Biến Chiếu Tôn đấy!
 
Giấc mộng sen vàng
Sách Tam Tổ Thực Lục chép lại tỉ mỉ câu chuyện trên như sau:
“Một đêm giờ Tý, vua vượt thành mà đi, muốn vào núi Yên Tử. Đến chùa ở núi Đông Cứu thì trời sáng, liền vào ẩn trong tháp. Vị tăng trụ trì thấy tướng mạo dị thường liền đem thức ăn khoản đãi. Hôm ấy thái hậu và vua Thánh Tông sai quần thần đi tìm tứ tán, bất đắc dĩ vua phải về. Khi lên ngôi, tuy ngồi lên chín bệ vinh quang nhưng sinh hoạt rất thanh tịnh.
Một hôm nghỉ trưa tại chùa Tư Phúc trong đại nội, vua mộng thấy trên rốn mình nở ra một hoa sen lớn như bánh xe, trên đó có một đức Phật vàng. Bên cạnh, có người chỉ vào vua mà hỏi:
Biết đức Phật này không? Đó là đức Biến Chiếu Tôn đấy!
Vua tỉnh thức, đem giấc mộng nói lại cho Thánh Tông nghe, ai cũng lấy làm lạ. Từ đó thường ăn chay, tránh thịt cá, long nhan gầy mòn. Thánh Tông lấy làm lạ, hỏi, Điều Ngự (tức Trần Nhân Tông), cứ thực trình bày. Thánh Tông khóc nói: “Ta đã già, cậy vào mỗi mình ngươi, nếu ngươi như thế làm sao nối được thịnh nghiệp của tổ tông” Điều Ngự cũng khóc. Điều Ngự thánh tính thông minh, hiếu học, nhiều tài, đọc khắp các loại sách thông suốt cả đến nội điển, thường mời các vị thiền khách tới cùng giảng cứu thiền học.”
Năm 1276, con trai trưởng Trần Thuyên của ông ra đời, người sau này trở thành vua Trần Anh Tông.
Năm 1278, Trần Nhân Tông lên ngôi vua lúc 20 tuổi. Tới tháng 3 năm 1293, vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho thái tử, lên làm thái thượng hoàng. Từ thời điểm này ông thường lấy hiệu là Đầu đà Giác Hoàng Điều ngự, chuyên tâm vào kinh sách nhà Phật.
Sau ba trận chiến oanh liệt thắng quân Nguyên Mông, Trần Nhân Tông dường như đã hoàn thành trách nhiệm với đất nước ông trị vì, vào tháng 8 năm 1299, nhà vua quyết định lên núi Yên Tử tu hành.
Chốn khổ hạnh hay niềm vui tu luyện nơi thần tiên Yên Tử?
 
Việc vua Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành đã để lại nhiều truyền thuyết và gắn chặt chẽ với những di tích, danh thắng nổi tiếng trên núi Yên Tử.
Tục truyền rằng sau khi vượt dốc vào Yên Tử, thầy trò Trần Nhân Tông tắm ở một dòng suối. Trưa hè oi ả, vua Trần đóng khố, nhoài mình nơi dòng nước trong xanh. Tiếng nước réo rắt hòa với tiếng chim rừng lảnh lót, hoa muôn sắc tỏa hương theo gió thơm ngào ngạt. Nhà vua trồng cây đa bên bờ để người sau có bóng nghỉ. Kể từ dạo ấy suối được đặt tên là suối Vua Tắm.
 
Trưa hè oi ả tiếng suối reo
Chim ca lảnh lót giữa lưng đèo
Hoa rừng hương sắc hương theo gió
Đàn cá xuôi dòng nước trong veo
Đây chính nơi xưa suối vua Trần
Tìm nơi đất Phật để dừng chân
Bảy trăm năm đã bao dời đổi
Suối đẹp chùa xưa vẫn sắc xuân
 
Nếu như hòa vào thiên nhiên tuyệt đẹp chốn thần tiên Yên Tử, coi vật chất và phù hoa chốn kinh thành nhẹ tựa lông hồng, ai sẽ bảo tu hành là khổ?…
Cảnh sắc gần chốn thần tiên, sự tĩnh lặng, thanh khiết và từ bi của Trúc Lâm Đại Sĩ hiệu Hương Vân Đại Đầu Đà làm rung động vạn vật:
Tiếng mõ am xưa vua thiền định
Chim rừng buông cánh lặng nghe kinh
Hầu vượn từng đàn ngồi chật cửa
Muôn vật từ bi cõi nhân sinh
Hay như khúc hoan ca khi tâm hồn người tu hành thanh bạch và thăng hoa cùng cảnh sắc Yên Tử:
 
Đêm thu am cỏ mây đầy mây
Song thưa trăng phủ tấm thân gầy
Thái Thượng thiền sư say giấc mộng
Nhạc vàng sáo trúc cõi trời tây.
 
Sớm cưỡi mây chơi cùng non biếc
Đêm về bến nghỉ lót trăng nằm
Tiếng sáo thiền ca vui bất tận
Ngập tràn Yên Tử trăng trong trăng
Vua Trần mặc áo lá, ăn rau, uống nước suối Yên Tử. Đêm thu lạnh, trăng phủ lên người, hình ảnh Hoàng đế ngộ đạo tu hành có một không hai trên cõi trần thế
Vua Trần mặc áo lá, ăn rau, uống nước suối Yên Tử. Đêm thu lạnh, trăng phủ lên người, hình ảnh Hoàng đế ngộ đạo tu hành có một không hai trên cõi trần thế
 
Đỉnh chùa Đồng- Yên Tử
Ở Yên Tử còn có địa danh Cửa Ngăn, tục truyền đó là cửa ngăn giữa thế tục và cõi tiên:
Cửa Ngăn hậu thế mãi lưu truyền
Cửa ngăn trần tục với thần tiên
Am tháp mọc lên thành đất Phật
Mây ngủ trong mây với chùa chiền
Khảo nghiệm ý chí kiên định của người tu hành nơi Yên Tử: câu chuyện bi ai của các cung nữ trầm mình xuống dòng Hổ Khê
Khi Trần Nhân Tông vào núi Yên Tử tu hành, vua Trần Anh Tông không yên tâm đã sai các cung tần mỹ nữ của triều đình băng ngàn vượt suối vào Yên Tử gặp cha mình, khuyên Thượng Hoàng trở lại kinh thành Thăng Long. Không lay chuyển được ý chí kiên định của người tu hành, các cung tần mỹ nữ trầm mình xuống suối Hổ Khê để tỏ lòng trung trinh. Trần Nhân Tông xót thương, cho lập đàn tràng làm lễ giải oan những linh hồn cung nữ. Nơi lập đàn tràng sau dựng chùa Giải Oan và suối Hổ Khê được đổi cùng tên thành Suối Giải Oan từ thuở ấy.
 
Chùa Giải Oan- Yên Tử
Khúc hát thiền ca chùa Giải Oan
Rì rào tiếng suối giữa mây ngàn
Ngân nga chuông vọng chiều xa vắng
Cung nữ ngàn xưa tiếng thở than
Có phải đây là suối Giải Oan
Nhà Vua đau xót lập đàn tràng
Cây đa soi bóng hồn trinh nữ
Ngân hà ô thước dặm quan san
 
Hồ Yên Trung- Yên Tử
Trong số các cung nữ trầm mình xuống dòng Hổ Khê có năm cung tần được trai làng cứu sống. Để đền ơn cứu mạng, năm cung nữ lấy năm trai làng làm chồng, gọi là làng Năm Mẫu, tồn tại cho đến ngày nay.
Hồ Năm Mẫu lúc đó là biển nước, Trần Nhân Tông lập đàn tràng cầu Phật Tổ Như Lai cho nước rút hết. Nước rút trong sự kinh ngạc của người dân và vùng này trở thành vùng đất nông nghiệp màu mỡ. Từ đó các cung nữ ở lại hai làng, sinh sống bằng nghề làm ruộng trên vùng đất Phật độ màu mỡ.
Từ bi cảm hóa chúng sinh nơi non thiêng Yên Tử: ba tên cướp trở thành tín đồ ngoan đạo của thiền phái Trúc Lâm
 
Đường vào Yên Tử, giữa mây và núi
Tam Tổ thực lục có ghi chép lại rằng, khi ấy Vua Trần Nhân Tông và đồ đệ là Bảo Sái vào Yên Tử, qua hẻm núi có ba tên cướp nhảy ra đòi tiền mãi lộ. Ngài cho chúng tiền và cả phần cơm trưa của hai thầy trò và nhẹ nhàng thuyết giáo thức tỉnh nhân tâm của ba tên cướp. Từ đó hẻm núi Yên Tử hết cường bạo. Cả ba tên cướp sau này trở thành tín đồ ngoan đạo của phái Trúc Lâm.
Ba tên kẻ cướp nhảy chắn đường
Vua Trần cho bạc lẫn phần cơm
Nhẹ nhàng thuyết giáo trừ tâm độc
Cả ba quỳ lạy hứa hoàn lương
Bỏ nghề đao búa thiện giáo đường
Sơn lâm từ ấy hết tai ương
Gập ghềnh hẻm núi người qua lại
Bình an, vô sự, hết đạo cường
 
(Ảnh minh họa)
Thầy trò nhà vua tiếp tục lên đường đến một quả núi tròn như mâm xôi. Bảo Sái mở túi lục tìm cơm chay cho thầy mới giật mình sực nhớ là suất ăn đã đưa cho ba tên cướp ở cửa rừng. Vua Trần vui vẻ cùng Bảo Sái uống nước suối thay bữa rồi nằm nghỉ trên quả núi. Về sau, nơi đây dựng chùa mang tên Cấm Thực (không ăn), như thể khắc ghi hành động quên mình cứu độ chúng sinh của vị hoàng đế tu hành.
Sau này, Trúc Lâm Đại Sĩ (tức Trần Nhân Tông) còn cùng 2 môn đệ của Ngài là Pháp Loa (Nhị Tổ Thiền phái Trúc Lâm) và Huyền Quang (Tam Tổ Thiền Phái Trúc Lâm) tiếp tục đi giáo hóa chúng sinh suốt quãng đời còn lại của ngài.
Giúp triều đình nhà Trần quy y Phật Pháp
Cuối năm 1304, vua Trần Anh Tông thỉnh Trúc Lâm Đại Sĩ (tức cha Trần Nhân Tông) vào Đại Nội và xin thọ giới Bồ Tát Tại Gia. Những bậc quốc vương thọ giới Bồ Tát Tại Gia là những người phát nguyện dùng khả năng và quyền hạn của ngôi vị mình để phục vụ cho nhân sinh của Bồ Tát.
Ngày Trúc Lâm Đại Sĩ vào thành, vương công bách quan đều theo vua đi đón. Thấy vua Trần Anh Tông phát nguyện thọ giới Bồ Tát, mọi người trong triều đình cũng nhất loạt xin phát nguyện thọ tam quy ngũ giới (“Tam quy”, tức quy y tam bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo; “ngũ giới”, tức 5 giới cấm của nhà Phật: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu). Vậy là cả triều đình nhà Trần đã trở thành Phật Tử.
Vua Trần Nhân Tông đã biết trước thời điểm mình giã từ nhân gian nhập cõi niết bàn như thế nào?
Theo “Thánh đăng ngữ lục” và “Tam tổ thực lục”, niên hiệu Long Hưng thứ 16, ngày mồng 5 tháng 10, chị gái của vua Trần Nhân Tông là công chúa Thiên Thụy cho người lên núi, tâu rằng: “Công chúa bệnh tình nguy kịch, muốn được trông thấy Điều Ngự lần cuối”. Trần Nhân Tông liền chống gậy xuống núi, chỉ có một người đi theo.
Ngày mồng 10 tới kinh đô, ngày 16 dặn dò xong lại trở về núi. Trên đường về, người như linh cảm thấy thời khắc nhập niết bàn đã tới, Ngài đã qua một số chùa để giã từ tăng hữu. Tối ấy, người nghỉ chân ở chùa Siêu Loại, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Sáng hôm sau, người đi đến chùa Cổ Pháp, huyện Nam Sách, Hải Dương.
Ngày 17, người nghỉ chân ở chùa Sùng Nghiêm, huyện Chí Linh, Hải Dương. Ngày 18, người đến chùa Tú Lâm gần đó. Rồi người nói với hai nhà sư Tử Nan và Hoàng Trung rằng: “Ta muốn lên am Ngoa Vân, nhưng chân không bước nổi, biết làm sao đây?”. Hai nhà sư thưa: “Đệ tử xin hết sức giúp đỡ”.
 
Đỉnh Ngọa Vân (nằm trên mây)
Tới quá chiều vua Trần mới lên được đỉnh núi Ngọa Vân. Đây là ngọn núi cao nhất vùng thuộc làng Yên Sinh, huyện Đông Triều, quê gốc họ Trần. Trong thời gian tu ở Yên Tử, Trần Nhân Tông đã cho lập một am ở đây, đặt tên là Ngọa Vân (nằm trên mây), từ đó thành tên núi. Đôi khi người dừng chân đọc sách và tham thiền, nên đã có lối mòn đi tắt sang Yên Tử. Trần Nhân Tông cảm ơn hai nhà sư và bảo: “Thôi xuống núi ngay đi, chăm chỉ việc tu hành “.
Ngày 19, Trần Nhân Tông sai người hầu là Pháp Không lên núi Yên Tử gọi Bảo Sái. Bảo Sái tới suối Doanh, trông thấy một đám mây đen từ phía Ngoạ Vân bay qua núi Lỗi, đến suối thì nước dâng cao mấy trượng rồi lại phẳng lặng như thường. Bỗng thấy hai con rồng, đầu to như đầu ngựa cùng nghển cổ lên cao đến một trượng, hai mắt sáng như sao, một lúc thì biến mất.
Ngày 21, Bảo Sái tới Ngọa Vân. Trần Nhân Tông cười nói:
“Ta sắp đi đây, sao ngươi tới muộn thế? Trong pháp thuật có chỗ nào chưa hiểu thì hỏi ngay đi”
Mấy ngày liền, trời đất tối tăm, gió gào dữ dội, mưa như trút nước. Bỗng đêm ngày mồng Hai, rạng ngày mồng Ba tháng 11, trời quang mây tạnh. Vua hỏi: “Giờ này là giờ gì?“. Bảo Sái thưa: “Bây giờ là giờ Tý”. Vua đẩy cửa sổ ra và nói:
“Giờ của ta đó!”
Nói xong, người nằm dáng sư tử (sư tử ngọa), rồi tịch ngay trong am trên núi. Đó là ngày mồng Ba, tháng Mười một, năm Mậu Thân (1308).
 
Am Ngọa Vân- nhỏ nhoi đơn sơ giữa núi rừng trùng điệp, nơi vua Trần nhập diệt
Trước khi tịch diệt về cõi niết bàn, Ngài bảo mọi người hãy xuống núi, sau đúng 100 ngày mới đến được đến gần, thấy núi thơm thì hãy hỏa táng thi hài, nếu không thì thôi. Mọi người tuân theo, đúng 100 ngày sau tới lưng chừng núi đã thấy thoang thoảng mùi thơm. Người vẫn nằm nghiêng dáng sư tử một mầm trúc non xanh mọc xuyên qua đùi trái.
Đời sau còn lưu luyến trong dân gian bài thơ về hình ảnh trên, trong đó có câu: “Thân Tổ nằm nghiêng, trúc một mầm…”.
 
Tượng Phật Thương Hoàng Trần Nhân Tông trong tư thế nằm nghiêng (sư tử ngoạ) nhập Niết bàn với mầm trúc mọc xuyên qua đùi khi ngài tịch diệt. Trong Am Ngọa Vân.
Điều mà Ngài để lại cho thế nhân từ hình ảnh mầm trúc mọc từ thân thể ngài là gì, có lẽ chính là ngụ ý ghi dấu ấn Đệ Nhất Sư Tổ của Thiền Phái Trúc Lâm (“Trúc Lâm” nghĩa là “rừng trúc”) từ thời điểm đó…
Một thân thể tu luyện thành những viên kim cương lấp lánh? Những viên xá lợi của vua Trần hiện giờ đang ở đâu?
 


Những viên xá lợi đủ màu sắc lấp lánh ánh sáng và cứng như kim cương, là “đan” luyện thành từ thân thể các hành giả tu luyện, không tiêu biến đi khi hỏa táng, còn gọi là vật chất cao năng lượng, không tồn tại trong người thường…
Tuyên theo di chúc của Ngài, Pháp Loa đã hỏa thiêu thi hài người sau 100 ngày khi thấy núi tỏa hương thơm.
Ngay sau hóa thân xác Ngài trên giàn hỏa, tổ thứ hai của Thiền Phái Trúc Lâm là Pháp Loa đến tưới nước thơm lên giàn hỏa, thu được ngọc cốt và hơn 3000 viên ngọc xá lợi lấp lánh…
Theo “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” và sách “Tam Tổ Thực Lục”, cùng các bằng chứng khảo cổ, các viên ngọc xá lợi này hiện đang được lưu giữ tại khoảng tám địa điểm khác nhau.
Việc hoả thiêu và có xá lợi được “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi rất rõ: “Pháp Loa đem xác của Thượng hoàng thiêu đi, nhặt được hơn 3.000 viên xá lị mang về chùa Tư Phúc ở Kinh sư…”.
Các địa điểm hiện đang lưu giữ ngọc xá lợi của vua Trần Nhân Tông là:
Phật Hoàng Tháp bằng đá trên đỉnh Ngọa Vân: Phật Hoàng tháp hiện vẫn còn đứng sừng sững uy nghiêm trên đỉnh Ngọa Vân, tháp 2 tầng, mặt trước khắc nổi bức đại tự Phật Hoàng Tháp (佛皇塔), trong lòng tháp đặt một bài vị bằng đá xanh, trang trí hoa lá và hình rồng, bài vị ghi “Nam mô đệ nhất tổ Trúc Lâm đầu đà Tĩnh tuệ giác hoàng Trần triều đệ tam Nhân Tông Hoàng đế Điều ngự vương phật”
Tháp Huệ Quang ở chùa Hoa Yên, Yên Tử: Huệ Quang Kim tháp (慧 光 金塔), hay Tuệ Quang tháp (慧 光塔), hay hiện nay được gọi là tháp Huệ Quang hoặc tháp Tổ là tháp lớn nhất được nằm ở khu vực trung tâm Vườn tháp tổ phía dưới chùa Hoa Yên trong quần thể di tích danh thắng Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
 
Vườn Tháp Tổ- Chùa Hoa Yên – Yên Tử
 
Tháp Huệ Quang
Bảo tháp ở Đức Lăng (còn gọi là lăng Quy Đức, được xây dựng trong khu lăng tẩm nhà Trần xưa thuộc đất Tinh Cương, phủ Long Hưng, nay là Thôn Tam Đường, xã Tiến Đức huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình);
Tháp Phổ Minh ở khuôn viên chùa Phổ Minh, nằm ở phía Tây cung Trùng Quang phủ Thiên Trường, Nam Định, nơi Thượng hoàng nhà Trần ở sau khi nhường ngôi cho con;
 
Tháp Phổ Minh
Bảo Tháp Tư Phúc trong Đại Nội Cấm Thành Thăng Long: Sau khi hỏa thiêu, ngọc cốt và xá lỵ của Điều Ngự được vua Trần Anh Tông rước về kinh thành. Ngọc cốt để vào bảo khám, xá lợi được để trong bình vàng quản tại chùa Tư Phúc trong Đại Nội. Chùa Tư Phúc chính là nơi trước khi lên ngôi vua, Trần Nhân Tông thường đến ngủ trưa và đã mộng thấy trên rốn trổ một bông hoa sen vàng lớn như bánh xe và hình ảnh 1 vị Phật trên đó.
Tháp Đại Thắng tư thiên bên hồ Lục Thủy hay thường gọi là tháp Báo Thiên tòa tháp nổi tiếng được xây dựng năm 1057 dưới thời Lý Thánh Tông trong khuôn viên chùa Báo Thiên nằm phía Tây hồ Lục Thủy, nay thuộc khu vực Nhà Thờ lớn Hà Nội.
Tự viện Quỳnh Lâm là nơi đào tạo tăng tài lớn nhất của Thiền phái Trúc Lâm thế kỷ 14, thuộc chùa Quỳnh Lâm, xã Tràng An huyện Đông Triều…. Tự Viện Quỳnh Lâm vốn được thiền sư Nguyễn Minh Không xây dựng từ thời Lý, thế kỷ 12, tại đây ông đã cho đúc một pho tượng Phật Di Lặc lớn, đó là một trong bốn vật khí lớn nhất của An Nam (An Nam Tứ khí).
 
Tháp Quỳnh Lâm- Tự Viện Quỳnh Lâm
Qua những ghi chép sử sách và những bằng chứng khảo cổ học hiện có, chúng ta thấy dường như hành trình tu luyện của vua Trần Nhân Tông, từ rời bỏ ngai vàng vào núi tu hành đến từ bi cảm hóa chúng sinh, nhập diệt theo thế sư tử nằm, phân phát ngọc xá lợi đi khắp nơi của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, đều như một câu chuyện mô phỏng tái hiện thu nhỏ quá trình tu luyện, viên tịch và phân phát xá lợi của Đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni. Trong chuỗi sự kiện đó thì Yên Tử là nơi Phật Hoàng tu luyện, giảng pháp, độ tăng, và Ngọa Vân là nơi kết thúc trọn vẹn quá trình tu luyện và nhập cõi niết bàn của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, các nơi khác được lưu giữ xá lợi đều là những trung tâm lớn về chính trị, kinh tế hoặc tôn giáo dưới thời Trần.
 
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập cõi niết bàn trong thế sư tử nằm (sư tử ngọa)
Cảm Thán
Từ bỏ đài son điện ngọc ngà
Cung tần mỹ nữ chốn kiêu sa
Yên Sơn Linh Tử vua Trần đến
Kinh đô thành cũ mỗi bước xa
Non xanh cắt tóc dứt trần duyên
Vua đến nơi đây để nhập thiền
Không phải trốn đời và yếm thế
Cứu đời nhập thế với Thần Tiên
Vậy phải chăng, toàn bộ cuộc đời của vua Trần Nhân Tông là một sự sắp đặt hữu ý của Thiên Ý? Từ ngày Ngài ngài sinh ra, cho tới khi nhìn thấy bông hoa sen vàng trổ ra từ thân thể và nghe Phật danh đức Biến Chiếu Tôn, như để báo trước cho Ngài và thế nhân về Thiên mệnh Ngài mang tới cõi nhân gian. Sự từ bỏ ngai vàng điện ngọc để xuất gia tu hành của Ngài dường như không đơn giản là xuất phát từ mong muốn tìm kiếm giải thoát cá nhân cho riêng mình, từ sự lánh đời đi tu mà đã được đặt định trước để Ngài hạ thế, viết nên tấm gương tu hành và làm vững vàng đạo Phật tại đất Việt, đặt định vững chắc thêm nữa văn hóa tu luyện cho hậu thế.
Hà Phương Linh
Ghi chú: Những bài thơ được dùng trong bài viết nằm trong tập thơ Thi Vân Yên Tử- những vần thơ chấn động linh giác, tác giả Hoàng Quang Thuận.
Nguồn : ĐKN

Saturday, August 8, 2015

Friday, August 7, 2015

Cuộc Đời của con trai Út vua Bảo Đại

Cuộc Đời của con trai Út vua Bảo Đại - Huy Phương


Bao an 1
“Hoàng tử” Bảo Ân. (Hình: Huy Phương)

Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.

Ðó là ông Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ tỵ nạn, Westminster.

Chúng tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng (1).

Ðiều đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.

Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời năm 2012.

“Mệ” Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.

Ngày 4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh, vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.

Sau ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.

Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.

Chúng ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia, trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian, trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.

Cũng theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối xử tệ bạc này.

Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo đạo Chúa khác.
phi anh
Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)

Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn vị gốc.

Cố gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.

Sau năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm 1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải sống dưới chế độ cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.
163296-BAO DAI 1B.400
Hai nhân vật cuối cùng của giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh Luân (cháu nội của Bảo Ân). (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)

Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.

Con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)

*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.

*Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.

* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).

* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).

“Họa vô đơn chí!”
 Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:

Ngày 30 Tháng Tư, nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế, tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7. Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở 213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi phải dọn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc Loan.
163634-DP-130325-ChoTroi-1-400
Bức hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu của gia đình)

Tôi không biết Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại, chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất Ðính, chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.

Giấy tờ nhà đất chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để chứng minh là nhà này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang được gì thì mang, còn những gì nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.

Vào một buổi sáng thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại, nay không cánh mà bay. Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho Me tôi để lại, đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số vốn để buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để mặc.

Sống ở nhà Me tôi cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi, không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và chị Phương Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan Văn Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm thì mở mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo leo sang nhà bên cạnh trốn cho mau.

Me tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền đang tuyên truyền nói xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp, vay mượn cho chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.

Tôi đi vượt biên tổng cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị mất vàng chứ không bị bắt vào tù.

Hết tiền, bà và chị Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một chiếc khi tôi vào đại học. 

Gian nan chốn chợ Trời 

Vợ chồng tôi bắt đầu ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món hàng mua cả năm rồi mà không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả dạng cho người khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau đó có những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
co troi
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời. (Hình: Tư liệu của gia đình)

Thấy coi bộ bán Chợ Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11, được biết người bà con này có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, chúng tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến Thành.

Tôi đứng ở ngoài giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương một thời gian, chính quyền không cho xe ba bánh lưu thông những con đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng tôi bàn nhau đổi nghề một lần nữa.

Số là khi đi lấy nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ xong, nếu còn dư họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải chờ đợi 3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi đem những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ lớn.

Sau một thời gian quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai vợ chồng. Bán dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng bây giờ chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?

Tôi thì lo cho vợ tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt được thì đi tù là cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.

Trong một dịp tình cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại anh bạn thương phế binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc. Hiện nay, anh đang mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.

Sáng chúng tôi đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
163634-DP-130325-ChoTroi-3-400
“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)

Tôi có một kỷ niệm không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi, đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận coi hàng nên không thể chở Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an và quản lý thị trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn bán, thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc cuộc sống của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên thằng con đang nằm ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn Thái Bình vắng tanh không còn một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ “đem con bỏ chợ!”

Quân theo gia đình đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.

Gian nan những chuyến đi

Khoảng cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin cho toàn gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi không thành.
bao An va Mong Diep
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004)

Năm 1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984.

Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.
Mãi đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở Sài Gòn.

Xây mộ cho phụ hoàng

Gia đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005 gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?

Ông Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
bao an va mo bao dai
Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha

Nghĩa trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,) họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)… Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất này cho ngài.

Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài.

Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.

Ông Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.

Một chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
bao an va cont rai
Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.

Gây quỹ

Tốn phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực hiện được.

Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.

Năm 2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.

Khi được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.

Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”

Việc ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
164028-DP-130401-BaoDai-8-400
Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.

Ngoài các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”(*) khắc trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của nó.

Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.

Con trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.

Ngày khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại, ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người không ai muốn.

Ghi chú:
(*) Theo nhà biên khảo Võ Hương An, 4 chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trong kim khánh trên bia của lăng Vua Bảo Ðại tại nghĩa trang ở Paris, nhìn thì đẹp nhưng không có nghĩa. Hai chữ sắc tứ (hay có khi là ân tứ) được dùng khi vua ban thưởng một vật gì đó cho bầy tôi; ở đây, Vua Bảo Ðại đã là vua rồi thì không viết “Bảo Ðại Sắc Tứ” được. Nếu muốn trang trí thì nên ghi “Bảo Ðại Hoàng Ðế”.

Trong bài báo này chúng tôi dùng tiếng “mộ” để chỉ nơi an nghỉ của Cựu Hoàng Bảo Ðại. Nhưng theo sách vở triều Nguyễn, mộ của Hoàng Ðế, Hoàng Hậu, Thái Hậu được gọi là “lăng,” còn ngoài ra, dân thường và quan lại, dù đến nhất phẩm triều đình cũng chỉ được gọi là “mộ.”

Những đoạn đời gian truân

Ông Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như chúng tôi.

Một thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê. Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”

Trong thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.

Ông Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện này, cũng đã rất thông cảm.

Năm 1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm 1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung. 

Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại

Nhiều người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.

Câu hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ trương, chính sách của cấp trên?
164412-DP-BD11-400
Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.

Ông Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch thu” của:
– Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
– Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại.
– Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
– Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.

Tài sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…

Chúng ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung, diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho đến khi bà qua đời.

Sống lưu vong, chết nghèo khó 

Theo lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị truất phế, bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Ông nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi ra khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ được. Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời” (nguyên văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới trở về với bà Mộng Ðiệp.

Cũng theo lời tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không muốn tin ai nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến khi đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi ông đi đâu thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải bảo Hoàng Tử Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu hoàng, thì ông giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện thoại cho Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa.”

Thứ Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm 1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!” 

Nghèo khổ và cô đơn

Năm 1967, Công Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp, nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.

Lúc này cựu hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực, nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh chừng đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương Minh cũng chỉ gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo Thăng và các công chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc Trưởng Bảo Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia đình.
bao dai
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)

Ðời sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi làm tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung gởi qua. Mặc dầu các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài không bao giờ đề cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa ăn.

Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.

Cho mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm miền Nam.

Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.

Ở Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở với bà Monique trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến để cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp, bà Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ phi, nhưng nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà Monique đã đưa đến chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến thăm viếng ông nữa và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống trong cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại, Bảo Ðại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân, cùng đi với cựu hoàng có bà Monique.

Sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh không lui tới, thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy sự hiện diện của thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối cùng ở bên cạnh, với cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp. 

‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’

Ðể kết thúc 5 kỳ báo viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của ông, được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc trong lễ khánh thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.

Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng:
“Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”

“Nói về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” 
(Bảo Ân)