Tuesday, August 30, 2016

Văn hóa hay sự phô trương núp danh truyền thống? - Thích Thanh Thắng


Mỗi năm, vào rằm tháng bảy, huynh đệ trong chùa tôi đều thành kính đọc Văn Chiêu hồn của cụ Nguyễn Du và khi đem mâm áo giấy đi đốt, nghĩ đến thân phận những cô hồn không người cúng tế, trong lòng càng cảm kích hơn đối với tình thương người của Cụ: "Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo. 
Của có chi bát cháo nén nhang. 
Gọi là manh áo thoi vàng. 
Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên. 
Ai đến đó dưới trên ngồi lại. 
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu. 
Phép thiêng biến ít ra nhiều. 
Trên nhờ tôn giả chia đều chúng sinh. 
Phật hữu tình từ bi phổ độ. 
Chớ ngại rằng có có chăng chăng...".
Tro tiền bay lên, ai nấy cảm nhận như từ trong cõi lạnh vắng các vong hồn đang trở về. Trong sự "cộng tồn" của hai cõi âm - dương, ai không thể sống trọn nghĩa tử nghĩa tận của mình với người đi trước? Huynh đệ tôi, người nghĩ bằng dạ và người nói bằng lời: "Cụ ơi, cụ theo lời văn chiêu hồn về với những tu sĩ vô danh tiểu tốt chúng con Cụ nhé! Lễ bạc lòng thành, chúng con chẳng có gì ngoài manh áo giấy và một ít tiền vàng. Văn ấy là tình thương đời của Cụ, áo ấy là nhớ tưởng của người đời sau chúng con. Chúng con nghĩ Cụ đã siêu việt luân hồi, nhưng giữa cõi sống và cõi chết mong manh như tơ tóc, ở cái kiếp phù sinh như hình bào ảnh này, người đời sau như chúng con vẫn kính nhớ Cụ. Xin Cụ nhận cho chúng con của một chút này cũng chỉ là 'làm duyên' thôi ạ!".
Mùa Vu lan năm nay, tôi có nói với sư đệ: "Đến rằm tháng bảy, nhớ nhắc nhau mua đốt biếu Cụ Nguyễn Du vài bộ khăn đóng áo dài, đừng 'tiền vàng' gì cả". Sư đệ của tôi bảo rằng: "Người ta đang phê phán ầm ầm chuyện đốt vàng mã trên báo chí, rằng cái đó Phật có dạy đâu mà làm...".
Tôi không bàn gì về vấn đề của báo chí nói, mà tôi chỉ nói với sư đệ tôi rằng: "Em đừng coi nhẹ văn hoá, vài bộ áo giấy thôi, nhưng cũng là tấm lòng cả đấy. Cúng đốt như thế nào còn tuỳ theo tâm lý và động cơ của mọi người".
Những năm gần đây, người Việt du nhập và vồ vập với không ít những lễ hội đến từ bên ngoài, mức độ đánh giá về nó cũng khác nhau theo cách cảm nhận riêng. Thiết nghĩ, dân tộc nào đã hình thành quan niệm về hai cõi sống chết, thì với những hiện tượng tín ngưỡng, văn hoá dân gian cũng cần phải được nhìn nhận cho công bằng. Đối với người quá cố, cứ lấy một ví dụ về việc xây mộ to đẹp, chọn đất tốt để táng cho mả phát. Vậy có lời dạy nào của Đức Phật về chuyện này không? Thế mà từ bao đời nay, người ta vẫn xây mộ, thậm chí có nơi xây to như căn nhà thật để dành cho người chết. Nếu không nhìn ở hiện tượng văn hoá chung trên toàn thế giới về tưởng niệm người đã khuất bằng cách xây mộ cho người chết "ở", thì đó cũng là một việc làm "mê tín", lãng phí, khó có thể chấp nhận.
Khách quan mà nói, dịch vụ hàng mã phát đạt trong mấy năm gần đây chính do sự bất thường của việc mở rộng không kiểm soát trong lĩnh vực tín ngưỡng. Từ đó, dẫn đến những hành vi cầu cúng giống như một cách để đổi chác danh lợi với thánh thần, với người đã khuất, chứ bản chất của sự thờ cúng, xét dưới khía cạnh văn hoá cũng là một hình thức trả ơn, là đạo lý. Ngày xưa, các vị vua phong kiến phong sắc cho các vị thiên thần, nhân thần cũng không ngoài việc trả ơn cho họ để người dân thờ cúng quanh năm; tôn vinh công trạng của họ, thần thánh hoá họ cũng không ngoài việc khuyến khích cái trí, cái dũng, cái thiện của người dân.
Người viết bài này không hề có bất cứ ủng hộ nào với việc rải tiền giấy khắp đường khi đưa tang, và cũng không hề cảm tình gì với việc mua sắm đủ thứ vật dụng đồ mã như nhà cửa, xe cộ, máy bay, người hầu... giống như thật để đốt cho người đã khuất. Nhưng tại sao một vài manh áo, một vài thoi vàng, cộng với tấm lòng thành lại không đầy đủ ý nghĩa văn hoá và cả những giá trị nhân văn đằng sau nó?
Thử hình dung, nếu đến dịp tưởng niệm người chết, người ta chỉ chăm chăm với cỗ bàn, bia rượu, đánh chén no say, thậm chí sau khi men rượu ngấm vào còn xảy ra nhiều những tiêu cực, xáo trộn trong gia đình, thử hỏi việc cúng giỗ ấy có còn ý nghĩa tốt đẹp gì không?
Chính bản thân tôi, từng khuyên người thân trong gia đình của mình không nên đốt vàng mã một cách tốn kém trong các dịp cúng giỗ, nhưng tôi không có ý định bảo rằng phải loại bỏ nó ra khỏi đời sống gia đình chỉ vì không có kinh Phật nào dạy như vậy. Mẹ tôi cũng rất ý thức xem lòng thành mới là điều quan trọng, nên sắm lễ rất chừng mực. Có người đã nhầm lẫn, thậm chí vội vàng khi gạt bỏ hiện tượng tín ngưỡng trên ra khỏi văn hoá Phật giáo. Thực tế, đó là những nét tín ngưỡng từ lâu đã gắn kết với văn hoá Phật giáo và hoà hợp với văn hoá Phật giáo.
Không phải bất cứ những gì thuộc về văn hoá Phật giáo đều phải là những điều có trong kinh điển, hay được Đức Phật nói ra. Phật giáo du nhập vào mỗi quốc gia thì chính nó phần nào đã dần tách khỏi những yếu tố gốc ban đầu để dung hội với tín ngưỡng bản địa. Những hình thức Phật giáo quyền năng như xây chùa, tạo tượng, cúng tế, cầu siêu, bạt độ giải oan... đâu hoàn toàn có trong kinh điển Phật giáo.
Tôi có người cậu ruột, cậu tôi rất quan tâm đến việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, trong bất cứ dịp cúng giỗ nào, cơm canh có thể thiếu thứ này thứ kia, nhưng đĩa trầu cau, vài xấp quần áo giấy, vài đinh vàng âm phủ, vài bó hương, vài đĩa hoa thì không bao giờ được thiếu. Vì tâm thức luôn coi việc đó là có ý nghĩa với ông bà, nên mỗi khi có giỗ ông bà, cậu mợ tôi đều đi chọn mua một vài bộ quần áo. Cậu tôi cho rằng cái đó mà thiếu trong dịp lễ giỗ là có lỗi, vì cỗ bàn cúng xong, người sống hưởng, người chết "có được gì"?
Sau này cậu tôi mắc bệnh nan y, khi gần mất, có dặn lại mợ tôi đừng làm gì tốn kém, chỉ cần đến ngày giỗ đốt cho một ít quần áo là được rồi. Lúc đó, tôi nghĩ đến câu "nhất thiết duy tâm tạo" trong kinh Hoa Nghiêm, người cậu của tôi đã tạo ra cái tâm cúng ông bà và căn dặn mợ tôi đừng làm gì cầu kỳ, tốn kém chỉ cần đốt cho vài bộ quần áo và ít tiền giấy là được. Chính cái "tâm tạo" ấy mà tôi cho rằng cậu tôi sẽ "nhận" được những gì mà mợ tôi đốt xuống. Ai không có cái tâm tạo ấy thì giấy chỉ là giấy không hơn không kém. Để thì hòn đất mà cất thì thành ông Bụt. Hơn nữa, với cái ân nghĩa vợ chồng bao năm, nay âm dương đôi ngả, việc làm đó không phải không có ý nghĩa.
Sau tôi mới dần hiểu ra, cũng như một số hình thức táng người chết của Tây Tạng, nhiều khi phải phơi xác cho chim ăn, bởi lúc sống họ luôn nghĩ làm vậy thì mới được siêu thoát, vì thế lúc chết, ai không làm như vậy với họ mới chính là không thương họ. Nhưng nếu áp dụng vào văn hoá người Việt thì quả là bất nhẫn. Khó có thể so sánh sự cao thấp văn hóa khi cả hai dân tộc Tạng và Việt đều ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo. Các vùng đất giàu truyền thống Phật giáo như Nhật Bản, Tây Tạng, Đài Loan đều có phong tục đốt vàng mã, phong tục này đi song song với việc thờ cúng người quá cố. Các vùng đất ấy đạo Phật phổ biến, nhưng đâu phải ai cũng có đủ bản lĩnh siêu thoát để bước ra khỏi cái nhân gian tình người, luôn lấy "duyên" làm sự bén rễ này. Nhân gian luôn có nhiều gam màu sắc, nhưng thương yêu vẫn là màu đậm nhất để nhận biết sự hơn hẳn của con người.
Hình ảnh mợ tôi cầm vài bộ quần áo giấy, vừa đốt vừa ngùi ngùi thủ thỉ với người cậu đã khuất của tôi, xem như cậu tôi đang còn sống, đã thế còn không quên mua thêm một ít để đốt cho những người không ai thờ cúng, không nơi nương tựa đang "ngụ" ở chung quanh khu đất ấy, thực sự mang đến cho tôi không ít niềm trắc ẩn. Nếu ai đó bảo nén hương là nhịp cầu nối giữa hai cõi âm dương, thì dăm ba manh áo, thoi vàng là sự nhớ nghĩ và quan tâm đến đói lạnh của nhau. Ăn miếng ngon nhớ tới người, mặc cái ấm nhớ tới người, để không quên những lúc đói lòng, những khi giá buốt mà tình chồng nghĩa vợ đã san sẻ cho nhau. Đó là một nét đẹp văn hoá. Chính vì cảm nhận nét đẹp văn hoá ấy, nhìn cảnh người người đổ xô đi mua sắm đồ mã giống như nhà thật, xe thật để phô trương mà càng cảm thấy buồn cho người Việt mình. Ước gì dân mình đều biết nghĩ như cụ Nguyễn Du "Gọi là manh áo thoi vàng, giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên".
Sự hoá giải lớn nhất của Phật giáo cho hiện tượng văn hoá "đốt mã" này không đến từ sự lên án, tẩy chay, mà đến từ lời Văn Chiêu hồn của cụ Nguyễn Du. Cụ đã hiểu "phép Phật thần thông quảng đại", nên mới nhắn nhủ các vong linh rằng: "Ai đến đó dưới trên ngồi lại. Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu. Phép thiêng biến ít ra nhiều. Trên nhờ tôn giả chia đều chúng sinh". Lời văn ấy đã xoá đi cái ranh giới của thân phận giàu nghèo, xoá đi cái tâm lý giành giật chen trước ngồi trên. Vì đã có phép thiêng biến ít ra nhiều, chia đều một cách bình đẳng, thì còn ngại gì việc mình không có phần, ngại gì mình đến trước đến sau, và người sống cũng còn lý do gì để tranh nhau mua những thứ đồ vàng mã đắt tiền, thực tế chỉ để làm đầy túi người kinh doanh mà thôi.
Có bốn điều mà cá nhân tôi liên tưởng ra trong hành động đốt tiền vàng giấy cho người quá cố (chắc trong dân gian còn có điều thứ năm, thứ sáu... và còn nhiều điều phải tranh luận nữa), đó là: sự lo sợ người thân sẽ phải đói lạnh và mong muốn họ được đầy đủ như mình; gián tiếp tạo nên hay khuyến khích phẩm chất nhớ ơn, biết ơn trong gia đình; hướng đến những ứng xử nhân quả trong việc thờ cúng tổ tiên; biết lo nghĩ đến đói khổ của người khác (dù là người khuất bóng) không kể thân sơ thì cũng làm tăng trưởng lòng từ bi hỷ xả, không bòn xẻn. Bốn điều ấy chắc chắn sẽ tác động không nhỏ vào đời sống thực tiễn hàng ngày.
Văn hoá là như vậy chứ đâu. Sự giao thoa của đạo Phật và văn hoá bản địa cũng có bao giờ đi ra ngoài những ứng xử nhân văn như vậy đâu? Tôi nghĩ, cụ Nguyễn Du đã tận hết sự thương người. Trong tiết tháng bảy mưa rầm sùi sụt, một vài manh áo, thoi vàng được đốt lên, người dưới kia tin chắc lòng sẽ ấm lên nhiều lắm. Xin đừng vội lên tiếng mạt sát, hay chợt nhìn vào một vài sự thái quá của nó mà vội đẩy nó ra khỏi mình, vội xem nó như là cái gì đó mê tín, tệ đoan ghê gớm.
Tình thương người của cụ Nguyễn Du sở dĩ thấu suốt đến nghìn đời, vì Cụ đã nhìn đời bằng con mắt của đời. Ước chi mỗi khi ai đó tưởng nhớ đến người quá cố, xin hãy nghĩ về cái tâm đã tạo của họ mà làm, chứ không phải bằng tâm vị kỷ, bằng sự phô trương cúng lễ để cầu mong sự phù hộ độ trì một cách phù phiếm.
Một năm có vài ba dịp, bỏ ra vài ba đồng tiền thật để mua một chút "của làm duyên", dùng tâm từ mà đốt thì còn ngại gì âm dương cách biệt...
Mong ai đó đừng tiếp tục để sự phô trương núp danh phong tục truyền thống. Cũng mong ai đó đừng vội đuổi nó như đuổi tà, bởi chính cái tâm lý phủi đẩy người khác để đề cao mình mới đáng sợ trong đời sống ứng xử văn hoá, tận diệt văn hoá.
Thích Thanh Thắng

Friday, August 26, 2016

Tuyết Trắng và Bùn Đen - Thích Nhất Hạnh



Đêm nay, trời sáng tỏ một cách kỳ lạ. Tôi chưa đi mà đã nhớ nhà rồi. Nhưng mà ở đâu cũng có từng này ngôi sao, ở đâu cũng có chút trời xanh và mây trắng hả Nguyên Hưng. Tôi đi rồi tôi lại về thì có sao đâu. Lòng tôi hơi xao xuyến một chút, nhưng mà vẫn yên tĩnh. Tôi muốn nói chuyện với Nguyên Hưng trong khung cảnh thanh tịnh này, và ngòi bút của tôi sẽ trở lại gạch những chữ Nguyên Hưng trên giấy trắng.
Kỳ ở Huế về vừa rồi thấy những đám mây trắng đẹp quá đi. Tôi ngồi trên một chiếc DC4.
Buổi chiều, ánh nắng vừa tắt nhưng ánh sáng còn dư dã để cho ta có thể thấy được sắc dịu hiền và trinh tuyền của những lọn mây. Cái thảm mây đó nó nằm phía dưới máy bay chúng tôi. Nó rộng lắm. Từng lọn từng lọn nối tiếp nhau, che khuất núi rừng phía dưới. Những lọn mây trắng như tuyết. Trinh tuyền hơn cả tuyết. Tôi muốn vốc chúng trong hai lòng bàn tay. Và bổng nhiên tôi thấy tôi với mây là một, tôi cũng trắng tinh và êm dịu như mây.
Điều đó thường quá mà, phải không Nguyên Hưng. Tại sao chúng ta ưa những cuộn mây trắng nõn và những tấm thảm tuyết trình tuyền? Tại vì cái khuynh hướng của bản chất sinh lý và tâm lý của ta nó thế. Ta ưa những cái gì tinh sạch, đẹp đẽ và an lành. Tinh sạch, đẹp đẽ và an lành theo nhận định và lập trường của cơ thể ta, tâm lý ta, chớ không hẳn là tính sạch đẹp đẽ và an lành như những tính cách khách quan của thực tại. Ưa một tờ giấy trắng, ưa một dòng nước trong, ưa một nét nhạc mềm hay mot người con gái đẹp thì cũng vậy, không có khác nhau gì hết trên căn bản tâm lý của con người. Nguyên Hưng chẳng thường nghe người ta đem tuyết đem trăng đem hoa để tả người con gái đẹp sao. Nhất là khi người con gái có vẻ hiền thục thì người ta lại ví đó là Tiên là Phật bởi vì Tiên Phật vừa đẹp lại vừa hiền. Và bên dưới những cái thiên hạ cho là đẹp là sạch là lành thì người ta còn tham lam đặt thêm nền tảng của sự thường còn. Đó là do nhu yếu của con người mà ra cả. Con người ưa cái gì thanh sạch, đẹp đẽ, hiền lành, và ưa những cái ấy thuộc về mình, đồng nhất với mình, và thường còn với mình. Thế rồi phía bên kia còn gì? Phía bên kia còn trái ngược với sự trong sạch tức là sự ô uế, sự trái ngược với sự đẹp đẽ tức là sự xấu xí, sự trái ngược với sự hiền lành là sự ác độc và sự trái ngược với sự thường còn tức là sự tiêu diệt tức là vô thể.
Và do đó có một sự vật lộn để tìm sang bên này, xua đuổi bên kia. Cho đến nỗi mà trong kinh Phật có khi người ta phải đùng bốn đức Thường Lạc Ngã Tịnh (Hữu thể, An lạc, Tự do, Thơm sạch) để miêu tả Niết bàn rồi sau đó phải thêm rằng phải hiểu những chữ đó theo hiểu nhất nguyên siêu tuyệt của nó mà đừng hiểu theo nghĩa tương đối trong thế giới hiện tượng. Điều đó chứng minh rằng con người chúng ta đã bị ám ảnh quá nhiều bởi ý tưởng về hạnh phúc ước lệ trên kia.
Đột nhiên kinh Bát Nhã tới giáng những đòn sống chết trên nhận thức đó. Quán Tự Tại Bồ-tát sau khi nhìn thấu suốt thế giới hiện tượng mỉm cười tuyên bố “Tất cả đều giả lập (không) hết. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, vân vân… đều là giả lập. Và: “Chân tướng của các giả lập đó không sinh cũng không diệt, không ô uế cũng không tinh sạch, không thêm cũng không bớt đi” còn gì nữa mà nghi ngờ hả Nguyên Hưng. Đó là điều tôi trông thấy trên máy bay, mà trông thấy từ một khía cạnh khác. Trông thấy như thế nào? Nguyên Hưng ơi, em hãy nhìn và em sẽ thấy, hỏi tôi làm chi. Tôi chẳng nói được chi cả, bởi vì không có gì mà nói.
Ban đầu thì tôi mỉm cười nghĩ đến những hình thái của nước: nước trong, nước suối, nước đá, hơi nước, mây, tuyết, mưa vân vân… Tất cả đều là H2O. mà chính là H2O cũng giả lập - cũng không phải là thực thể tự hữu - lấy O mà xét thì O có thể được chuyển thành những cái ta không gọi là O. Và chính những cái đó cũng là giả lập. Cũng là chuyển thành. Nương tựa vào nhau, trùng trùng điệp điệp. Không thể tách O ra khỏi không O, không thể nói O và không O là một, Nguyên Hưng à.
Trên cái căn bản di động đó, ta thường cố nắm lấy một cái gì không di động. ví dụ tôi đặt cho tôi một câu hỏi: anh cho hiện tượng nào là đẹp nhất? Tôi nói nước. Đẹp quá. Nước trong như gương. Tuyết phủ trên đỉnh núi. Mây từng cuộn trắng hay ngoài bãi biển. Mưa rào rào thấm nhuần cây cối xanh tươi. Nếu thiếu nước, thế giới này điêu tàn, khô cằn héo hon, buồn bã biết mấy. Cho nên tôi thấy Nước đẹp. Thế rồi tôi hỏi: Ví dụ không có lửa, nghĩa là không có nhiệt lực, không có hơi ấm, không có ánh sáng mặt trời? Thiếu ánh sáng chẳng hạn thì cái gì đẹp, cái gì không đẹp. Cái gì trong như gương, cái gì phủ trên núi, cái gì bay bay ngoài bãi biển, cái gì rào rào thấm nhuần cỏ cây xanh tươi? Óc tôi lóe thấy sự thực, nhưng mà tôi đã mê Nước rồi, tôi đành nhắm mắt nói liều: mặc kệ, tôi có nói là tôi ưa Nước nhất. Thật là vô minh, có phải không Nguyên Hưng.
Trong quá trình tuyên dương chuyển biến của các giả lập các hiện tượng - ta thấy có luân hồi. Chắc Nguyên Hưng đã liệng bỏ cái cái ý niệm luân hồi trẻ con ngày trước đi rồi, cái ý niệm đinh ninh rằng phải có gì đó. Như O hay cái H tôi vừa nói trên thì mới có luân hồi được. Nhưng trên sự thực chẳng có cái O cái H tự thân nào mà cả thế giới giả lập vẫn diễn biến mầu nhiệm. Luân hồi đó chớ gì, nhưng nếu nhìn thấu suốt ta sẽ không thấy có gì thường hay vô thường, tinh sạch hay ô uế, hiền lành hay ác độc, đẹp đẽ hay xấu xí. Đừng có nói cho trẻ con biết điều đó bởi vì chúng sẽ nói: không có hiền ác, không có tốt xấu và không có luân lý. Trẻ con chưa có mở mắt ở thời nào cũng vậy.
Nguyên Hưng ơi, giữa cái tinh sạch và cái ô uế, giữa cái đau khổ và cái sung sướng, giữa cái hiền lành và cái độc ác, mình theo cái nào? Nghe hỏi mà buồn cười, phải không Nguyên Hưng? Theo cái tinh sạch, cái sung sướng, cái hiền lành thì mình phải đập tan và tiêu diệt cái ô uế, cái đau khổ và cái độc ác. Mà tiêu diệt chúng được chăng. Nếu “cái này có là nhờ cái kia có”, thì cái trong sạch cũng do cái ô uế mà có. Tiêu diệt cái ô uế tức là tiêu diệt luôn cái trong sạch, vì lẽ “cái này không thì cái kia không”. Kết luận là nên dung dưỡng cái ô uế, cái độc ác và cái đau khổ hay sao?”
Nhưng mà Nguyên Hưng ơi, tất cả những cặp đối nghịch đó chính đã là do chúng ta tạo nên bằng nhận thức của chúng ta, bằng lập trường sinh tâm lý của chúng ta. Hoan lạc và đau khổ trở nên những đại vấn đề. Nếu được như Quán Tự Tại soi thấu được chân tướng thực tại, thì những đau khổ tai nạn bốc khói bay mất. “độ nhất thiết khổ ách”. Cho nên hãy nhìn nụ cười đức Phật. Nụ cười đó trầm lặng thật, từ bi thật nhưng mà… coi thường chúng ta quá. Đó là một cách nói mà thôi bởi chính Phật đã nhờ đức Thường Bất Khinh Bồ-tát nhắn với mỗi người chúng ta rằng Ngài… không dám khinh chúng ta đâu, bởi vì tất cả chúng ta đều sẽ thành một vị Phật.
Có lẽ cái cảm tưởng trẻ con của tôi về nụ cười của Ngài là do một thứ mặc cảm tự ti lâu ngày tạo nên - chớ không phải tự tôn. Nguyên Hưng nhớ nhé. Trước nụ cười của người thấy được Niết bàn và Sinh tử đều là hoa đốm giữa hư không, ta cảm thấy ta bé nhỏ quá, vụng về quá, ngu si quá. Ngài thương chúng ta không phải vì chúng ta không thấy đường cho nên bị đau, thế thôi.
Từ hồi nhỏ, tôi đặt vấn đề bản chất của lòng từ bi, và tội nghiệp cho tôi, tôi chỉ học được và nếm được chút ít từ bi sau này không phải nhờ học tập hay nhờ đặt vấn đề mà nhờ khổ đau. Tôi không tự hào về chút khổ đau ấy; cũng như có ai tự hào về tiếng hét to sợ hãi của mình khi mình nhận lầm sợi giây là con rắn. Khổ đau của tôi cũng chỉ là sợi giây, cũng chỉ là hoa đốm giữa hư không, đáng lẽ nó phải tan biến như mây khói khi mặt trời lên! Nhưng mà nó vẫn chưa tan biến thành mây khói cho nên anh vẫn đau khổ và anh chịu không nổi nên anh tự vùng vẫy. Vậy Phật có thấy anh đau khổ không. Phật có chịu nổi khi thấy anh đau khổ không mà ông ngồi cười hoài vậy? Tôi lý luận rằng tình thương là phải có chấp thủ, tình thương nào cũng vậy, tình trai gái yêu nhau, tình mẹ thương con, tình nước non, tình nhân loại, tình chúng sinh, nghĩa là cả từ bi. Bởi vì thương ai, lo lắng cho ai anh cũng phải thao thức, mong mỏi, không thể lãng quên. Thế thì trông thấy chúng sinh đau khổ vô lượng vô biên thế kia, Phật cũng lo lắm chứ sao mà ngồi cười được hoài. Thật ra thì mình tạc tượng Ngài ngồi cười. Nhưng mà có phải hầu hết những đêm thức khuya, những lo lắng và thao thức của người có tình thương đều phát sinh vì người đó còn là người trần mắt thịt, đối với thực tướng vũ trụ vẫn còn “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” không? một ông bác sĩ biết rõ tình trạng bệnh nhân thì không ngồi giả định thế này thế kia để tạo ra một trăm ngàn giả thuyết và lo lắng như người thân nhân của bệnh nhân. Và nếu biết bệnh sẽ qua, thì ông có thể cười. Nhưng không phải là nụ cười độc ác. Đó chỉ là nụ cười của người biết chuyện, không còn phải lo hão huyền vô ích. Đại bi, maha karuna bản chất của nó, Nguyên Hưng ơi, làm sao tôi diễn tả cho được?
Nguyên Hưng, sự thực nằm ở đó, em làm quen với nó đi. Chỉ khi nào em bắt đầu thấy được giữa bùn đen kia với tuyết trắng nọ không có cái gì xấu cái gì đẹp, chỉ khi nào em biết bắt đầu nhìn sự thật với tâm niệm không phân biệt, nghĩa là biến kế, thì em mới có thể nếm được thế nào là đại bi.
Dưới con mắt của đại bi, không có tả không có hữu, không có thù không có bạn, không có thân không có sơ. Mà đại bi không phải làvật vô tri. Đại bi là tinh lực màu nhiệm của sáng chói.
Vì dưới con mắt của đại bi, không có cá thể riêng biệt của nhân ngã nên không có một hiện tượng nhân ngã nào động tới được đại bi.
Em ơi, nếu con người có độc ác đến nước móc mắt em hay mổ ruột em và em cũng nên mỉm cười và nhìn con người bằng cặp mắt xót thương; hoàn cảnh tập quán và sự vô minh đã khiến con người hành động như thế.
Hãy nhìn con người đã đành tâm tiêu diệt em và đang tạo nên cho em những oan ức khổ nhục lớn lao như trăm ngàn quả núi, hãy nhìn con người ấy với niềm xót thương. Hãy rót tất cả niềm xót thương từ suối mắt em vào người đó mà đừng để một gợn oán trách giận hờn xuất hiện trong tâm hồn. Vì không thấy đường đi nước bước cho nên cái người làm khổ em mới vụng dại lỗi lầm như vậy.
Giả sử một buổi sáng nào đó em nghe rằng tôi đã chết tăm tối và tàn bạo vì sự độc ác của con người, em cũng nên nghĩ rằng tôi đã nhắm mắt với một tâm niệm an lành không oán hận, không tủi nhục. Em nên nghĩ rằng giờ phút cuối tôi cũng không quay lại kẻ thù ghét con người. Không, con người chẳng bao giờ đáng cho ta thù ghét. Nghĩ như thế chắc chắn em sẽ mĩm cười được, rồi nhớ tôi, đường em, em cứ đi. Em có một nơi nương tựa mà không ai có thể phá đổ và cướp giật đi được. Và không ai có thể làm lay chuyển niềm tin của em, bởi vì niềm tin ấy không nương tựa nơi bất cứ một giả lập nào của thế giới hiện tượng. Niềm tin ấy và tình yêu là một, thứ tình yêu chỉ có thể phát hiện khi em bắt đầu nhìn thấu qua thế giới hiện tượng giả lập để có thể thấy được em trong tất cả và tất cả trong em.
Ngày xưa, đọc những câu chuyện như câu chuyện đạo sĩ nhẫn nhục để tên vua cường bạo xẻo tai cắt thịt mà không sinh lòng oán giận, tôi nghĩ đạo sĩ không phải con người. Chỉ có thánh mới làm được như vậy. Nhưng Nguyên Hưng ơi, tại lúc đó tôi chưa biết đại bi là gì. Đại bi là sự mở mắt trông thấy. Và chỉ có sự mở mắt trông thấy tận cùng mới khiến cho tình thương trở thành vô điều kiện, nghĩa là biến thành bản chất đại bi. Đạo sĩ nhẫn nhục kia đâu có sự giận hờn nào mà cần nén xuống? Không, chỉ có lòng thương xót. Giữa chúng ta và vị đạo sĩ kia, và vị Bồ-tát kia, không có gì ngăn cách đâu, Nguyên Hưng. Có thể tình yêu đã dạy cho em rằng em có thể làm được như Người.

Thích Nhất Hạnh

Tuesday, August 16, 2016

Thêm một lần được ngửi "Mùi thơm của Mạ"

Trưa 24-7-2016 Mạ ngồi chờ con về. Con xin cám ơn Trời Phật đã cho con thêm một lần được ngửi Mùi thơm của Mạ https://gelekdorje.wordpress.com/mui-thom-cua-ma/


Monday, August 8, 2016

Sunday, August 7, 2016