Saturday, January 31, 2015

Nhớ người em gái Huế thương

Nhớ người em gái Huế thương

Nhạc và lời : Lâm Hoàng Nghĩa
Hòa âm nhạc sĩ : Cao Ngọc Dung
Tiếng hát ca sĩ : Tâm Thư

Mỗi khi nhìn, màu áo tím thiết tha
Lòng bâng khuâng nhớ màu tím năm nào
Chiếc áo dài , nụ cười duyên duyên quá
Đại Nội chiều em nón lá che nghiêng

Chuà Thiên Mụ bữa nớ quen biết nhau
Trời cố đô se đẹp duyên đôi mình
Nhớ yếm đào, nàng bỏ quên đêm nớ
Trên con đò say sóng nước sông Hương

Điệp Khúc : (2 lần)
Huế đẹp ơi Huế thơ ngây mơ mộng
Anh phương xa từ Pháp Quốc trông về
Lòng mãi thương sao đất kinh kỳ,
Dù đã bao năm vẫn nhớ hoài
Người em áo tím, ngày xưa anh trót yêu

(hát 2 lần)
Lâm Hoàng Nghĩa

Friday, January 30, 2015

Thursday, January 29, 2015

Thư của cụ Phan Châu Trinh gửi vua Khải Định nêu 7 tội lớn của vua



Một tư liệu lịch sử rất hay cần đọc
Năm 1922, vua Khải Ðịnh sang dự cuộc đấu xảo quốc tế ở Ba Lê, cụ Phan Châu Trinh gởi cho nhà vua một bức thư lời lẽ nghiêm khắc buộc Khải Ðịnh phải thoái vị nhường quyền lại cho quốc dân và kể bảy tội nhà vua đã làm và đáng tội chém đầu. Có đoạn cụ đã viết:
“…Một là vì Trinh này đối cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn, không còn một chút quan hệ gì, chỉ đứng vào cái địa vị đối đãi mà thôi, cho nên bức thư này không phải dâng lên cho bệ hạ mà chính là gửi cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà tôi dùng đây, chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã quen trong Hán văn đó mà thôi … ngày nay Trinh này đề thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðảo là cái tên húy của bệ hạ, để tỏ ý phản đối”.
Bức thư của cụ, sau khi được công bố, khích động được tinh thần tranh đấu của đồng bào trong và ngoài nước.
Xin giới thiệu bức thư này của nhà cách mạng Phan Châu Trinh do Phan Châu Trinh và Lê Ấm dịch, được in trong Thư thất điều NXB Anh Minh, 1958, Huế.

KHẢI ĐỊNH HOÀNG ĐẾ THƯ

Thư thất điều gởi vua Khải Định (bản dịch)


Việt Nam quốc dân Phan Châu Trinh gởi thư cho đương kim hoàng đế

Tôi sinh gặp lúc: trong thời nước nhà nghiêng ngập, ngoài thời các nước đua tranh tiến bộ. Tôi là người yêu bình dân chủ nghĩa, ghét chuyên chế quân quyền,đau đớn vì quan lại tham lam, thường xót vì dân sinh khốn khổ, vậy nên tôi sẵn lòng liều cả sanh mạng tôi, ra gánh vác việc đời, trông mong có cứu lại cuộc hiểm nghèo được chút nào chăng!

Năm 1907, tôi đã gởi thư cho các quan chánh phủ Bảo hộ, hết sức kêu ca,trước bày tỏ tình cảnh khổ sở của dân Việt Nam, sau xin thay đổi theo chính trị các nước văn minh trong thời bây giờ. Những việc tôi đã đề xướng trong lúc ấy đều là sự cần kíp cấp thiết cả: như lập trường dạy tiếng Tây và chữ Quốc ngữ,bày ra hội thương, hội nông để giành lại quyền lợi cho người mình, và thay đổi cách ăn mặc theo cách Âu Tây, v.v… Những việc đó tôi làm trước mắt người thiên hạ, rõ ràng như ban ngày, vậy thời có tội lỗi gì không? Thế mà triều đình nước ta, từ trên đến dưới, cứ khư khư giữ lấy thói chuyên chế cũ để hà hiếp dân ngu,cướp lấy lợi riêng cho mình; ghét việc thay đổi như cừu thù, coi nhân dân như rơm rác, tìm cớ bới việc, phá phách đủ đường, làm cho lòng dân ai ai củng tức giận, để mà giết hại những kẻ thông minh lương thiện trong nước. Sự chống sưu thuế không công bình, xảy ra khắp cả 12 tỉnh Trung Kì trong năm 1908, thời dânvà thân sĩ bị giết và bị tù, kể hơn mấy ngàn người, đau lòng thảm dạ biết bao nhiêu.

Gặp dịp như thế, một người như tôi, có thể nào mà họ chịu bỏ lỏng: phao cho việc này, buộc vào cớ kia, trước thời xử án tử hình, sau lại đày Côn Lôn.

Khốn nạn thay! Nước ta bị nước Pháp bảo hộ đến ngày đó đã gần ba bốn mươinăm rồi, nhưng sự hủ bại vẫn không thay đổi, cách văn minh chẳng hề bắt chước,mà cái nọc độc chuyên chế ức hiếp vẫn còn gớm ghiếc như thế. Vậy thời cái văn minh của nước bảo hộ không có ích gì cho nước bị bảo hộ, mà nước bị bảo hộ cũng không nhờ gì được sự khai hoá của nước bảo hộ, lạ quá! Sự đó trong đời nầy cũng ít thấy vậy.

Nếu tôi không nhờ được cái lòng công bình của mấy người Tây thời tôi còn đâu đến ngày nay. Tôi mà còn sống đến nay, cũng là nhờ cái văn minh thực của người Tây vậy (nhờ có hội Ligue des Droits de I’homme).

Năm 1910, được khỏi tù, năm 1911 tôi được qua Tây để xem xét cái học thuật văn minh Âu Châu. Đã 12 năm, tôi ăn nằm trên cái đất dân chủ, hớp cái không khí tự do, nhờ vậy mà tôi hiểu được lẽ chánh đáng trong thế giới, phần nghĩa vụ của quốc dân, và cũng biết chắc được cái mục đích của nước nhà nên thay đổi như thế nào. Dân ta bây giờ phải đánh thức nhau dậy, phải đồng lòng hiệp sức mà chống cự với lũ vua dữ quan nhơ, phải phá nó cho tan, đạp nó cho đổ; lại phải lấp tận nguồn, cắt tận rễ, làm cho tiệt hẳn sức ma quỉ chuyên chế, nó đã ám ảnh chúngta mấy ngàn năm nay, nếu không làm như thế thời không bao giờ trông thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng nữa!

Đó là cái chủ ý và cái mục đích của tôi vậy.

Vậy mà nay tôi nghe Bệ hạ từ khi lên ngôi tới giờ, có làm điều gì ích lợi cho dân không? Không, chỉ nghe có những điều kiêu căng, dâm dục, trái luân lý;nghịch phép tắc; quyền vua muốn cho tôn sùng, thưởng phạt mất cả công chính;hút cái máu mủ của dân nghèo, trau cái xác thịt cho sung sướng, ngược văn minh của thế giới, ngăn đường tiến bộ của quốc dân; nết xấu tính hư, chứa chan đầy nhẩy, không sao mà nói cho xiết được.

Theo luật hiến pháp các nước văn minh trong đời bây giờ, vua nào trái phép,dân có quyền cứ luật mà bắt tội. Tuy ngày nay dân quyền nước Nam còn bị đè nén,hiến pháp còn chưa thành lập, song cứ theo lẽ công bình chung trong đời nay, Bệ hạ không sao mà gỡ tội với chúng tôi được.

Nay tôi trích ra bảy việc quan hệ thứ nhất đến dân, đến nước chúng tôi, bảy việc đó là bảy tội của bệ hạ, tôi sẽ xét đoán bắt buộc như sau nầy, khi bệ hạ được thư này, thì Bệ Hạ phải tự xử lấy.

I. Một là tội tôn quân quyền

Sau khi Bệ hạ lên ngôi, thường ra những Chiếu, Dụ ép dân phải tôn quân quyền, là lẽ gì vậy? Bệ hạ thường nói, nước ta xưa nay vẫn sùng Nho giáo. Nho giáo còn ai lớn hơn ông Khổng, ông Mạnh? Xưa vua Định Công hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có câu gì vua nói ra làm nước thạnh vượng được không?”. Đức Khổng Tử rằng: “Có, làm vua khó lắm, mà làm tôi cũng không dễ”. Lại hỏi rằng: “Vậy thời có câu gì vua nói ra, mà làm mất nước không”. Đức Khổng Tử rằng: “Có, ta không vui chi sự làm vui, ta chỉ vui sao cho những lời ta nói ra không ai dám cãi lại”. Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Trong nước dân là quý nhất, đất cát và vật sản làt hứ nhì, còn vua là khinh”. Lại nói rằng: “Có ở cho được lòng người cùng dân,mới đáng làm ngôi thiên tử”. Còn biết bao nhiêu là lời nói khác nữa, cũng toàn một ý ấy cả. Bệ hạ xem lại trong 5 Kinh và 4 Truyện, xem có câu nào là tôn quân quyền không? Bởi vì người nào mà ngôi mình ở trên muôn người, thời lòng khiêm nhượng phải xem mình như ở dưới cả muôn người, ấy là cái tinh thần của Nho giáo vậy; nếu người nào hãnh hãnh tự đắc, cậy quyền thế mà ép dân, rằng: “chúng bay phải tôn ta, phải sợ ta, thời người ấy chẳng khác chi tìm đường tự tử vậy”.

Xưa vua Kiệt rằng: “Ta làm vua trong nước nầy, như mặt trời soi trên trái đất, mặt trời mất ta mới mất”. Dân thời trả lời rằng: “Mặt trời kia sao mầy không mất? Chúng ta sẵn lòng chết với mầy, làm cho mầy mất.”

Vua Trụ rằng: “Mạng ta sinh ở trời, chứ chẳng ở dân”. Dân trả lời rằng:“Trời là dân, trời xem là dân ta xem, trời nghe là dân ta nghe.”
Rút cuộc lại vua Kiệt thời đày ra nội Nam Sào, vua Trụ thời đầu treo cờ Thái Bạch.

Ấy là những gương của các ông Vua tôn quân quyền đó. Về sự đó đức Khổng Tử rằng: “Vua Thang đày ông Kiệt, vua Võ giết ông Trụ là hợp theo lẽ trời, mà thuận theo lòng người”, Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Nghe giết một người tàn bạo,tên là Trụ chứ chẳng phải giết vua.”

Đấy mới thực là Nho giáo đấy, sách vở còn sờ sờ đấy, đều ghi lại từ tay đức Khổng, thầy Mạnh cả, có phải tôi bày đặt ra tôi tự dối tôi, mà phỉnh người ta đâu.

Những Chỉ, Dụ tôn quân quyền của Bệ hạ, có khác gì cái chiến thơ với Nho giáo hay không? Xưa nay có vua nào nghịch với quốc giáo mà còn được làm vua lâu dài đâu.

Còn theo các học thuyết mà nói, sao gọi là nước? Là hiệp dân lại mà thành nước; sao gọi là triều đình? Là những người được ủy quyền cho, phải thuận theo ý muốn của dân mà làm những việc lợi dân ích nước.

Ông vua hay ông Giám quốc, chẳng qua là người thay mặt cho một nước, cũng như một người quản lý thay mặt cho một Công ty mà thôi.

Ai chịu trách nhiệm ấy, hay hưởng được cái quyền lợi, thời phải làm cho hết các bổn phận mình đối với dân, đối với nước; nếu không thế thời cũng bị phạt,bị tội như mọi người vậy.

Ấy, tự do, bình đẳng, là nghĩa như thế mà các nước văn minh thì nay phải đặt ra quan Nội các Tổng trưởng (tức là Tể tướng) để thay quyền vua hay Giám quốc để chịu lỗi với dân là thế.

Nếu có ông vua, hay ông Giám quốc nào chiếm của dân làm riêng của mình, thời dân buộc tội cũng chẳng khác gì tội ăn trộm ăn cướp; nếu cậy quyền mạnh hành hạ dân làm tôi mọi, thời buộc tôi cũng như đứa bạn nghịch.

Cái lẽ ấy đương thời nó sáng rỡ như ban ngày, ai ai cũng rõ. Phàm những dân các nước văn minh, đều coi lẽ ấy như nước, lửa, lúa, gạo, thờ lẽ ấy như trời đất thần linh; dân nào thuận lẽ ấy thời được thạnh vượng phú cường, dân nào trái lẽ ấy thời phải sa sút hèn hạ.
Xưa vua nước Pháp là Louis XIV nói rằng: “Nước là ta”. Dân Pháp cho là lời nói đại nghịch vô đạo; đến nay người Pháp làm sách chép đến câu đó cũng còn chưa nguôi lòng giận. Cái ý đó có khác gì với nghĩa Nho giáo đâu.

Đức Khổng Tử nói rằng: “Ông vua nào muốn cái sự ghét của dân, thời tai hại tất có ngày đến mình”. Lại nói rằng: “Mọi rợ nó có vua, chẳng bằng những nước văn minh nó không có là hơn”. Ông Mạnh Tử nói: “Nước là nước của dân, chứ không phải của vua”.
Nay Bệ hạ sinh đẻ trong nước Nho giáo, và làm vua trong thì bây giờ là thế kỉ 20, mà nước ta lại đứng dưới quyền nước dân chủ Pháp Bảo hộ, Bệ hạ lại dám tôn mình như thần thánh, nghênh ngang trên đầu dân. Vậy thời chẳng những dân Việt Nam không thể dung được Bệ hạ, mà dân nước Pháp lại càng khi dễ Bệ hạ nữa.
Nay chúng ta thử ghé mắt xem qua tình thế Âu Á, Nhật Bản là nước đồng văn,đồng giống với nước ta. 40 năm trước họ đã lập ra hiến pháp, cho dân được bầu cử nghị viện; việc chính trị trong nước theo công ý của dân, chứ vua không được tự chuyên cả; vì thế nên nước họ được cường thịnh, nay đã đứng đầu trong Á Đông, thế mà họ vẫn hiềm quyền vua còn lớn quá. Vua Minh Trị là vua có danh tiếng công đức của Nhật Bản, mà cuối năm hiệu Minh Trị, ông ta còn bị cái hiềm thích khách, lại năm mới rồi đây, quan Tể tướng Nhật Bản bị giết trong ga xe lửa cũng vì cớ ấy.

Nước Tàu là nước mẹ văn minh nước ta, trong năm 1911 họ cũng đã đuổi vua đi để lập nên nước dân chủ.

Còn như Âu Châu, quyền vua còn ai lớn hơn Hoàng đế nước Nga, thứ nữa thời Hoàng đế nước Đức, và Hoàng đế nước Anh (trong nguyên bản là Úc,có lẽ nhầm?). Trong chiến bại vừa rồi, vua Nga là Nicolas II và cản hà bị giết một cách rất thảm hại; vua Đức Guillaume II phải trốn qua Hà Lan mới khỏi chết; vua Anh Charles I, hai lần trốn về để mưu phục ngôi vua, dân nước Anh họ chống cự lại và đuổi đi như đuổi gà; rút cục lại bị đày chết ngoài một hòn cù lao.

Những ông vua tôi đã kể trên đó, đều là những người anh kiệt, và trí họ cũng biết đủ mọi việc trên thế giới, tuy họ đối với dân có một hai chuyện tự chuyên,song cũng có lắm việc họ làm ích cho nước họ. Những ông vua nào làm nên, thời nước được giàu mạnh, ông nào có bị thua đi nữa, cũng không đến nổi mất nước.Thế mà các nước ấy nó đối với các vua chúng nó một cách rất nghiêm khắc, ghé thọ như là cục thịt dư bướu thịt, gớm họ như con rắn dữ rết độc; việc nhỏ không cẩn thận, thời chúng nó bẻ bắt không thứ; làm việc lớn mà hỏng, thời sự chết chóc theo ngay. Xem đó thời đủ biết cái trí thức những dân đời bây giờ mở mang là thế nào!

Còn nước Nam ta, từ xưa đến nay, vẫn là một nước chuyên chế, trăm việc chính trị vào một tay vua; công việc Triều đình cấm không do dân nói đến (luật ta cấm không cho học trò và dân gửi thư cho vua nói chính trị). Đã 70, 80 năm nay,trên vua thời hèn, dưới tôi thời nịnh; pháp luật thời nghiêm nhặt, dân mất cả tự do (từ thời Gia Long đem luật Thanh về trị dân Việt Nam, là một sự lầm, vì luật đó là luật người Mãn Châu lập ra để trị Trung Quốc, trong luật ấy lắm phép không công bình; xem như khi luật ấy bắt đầu thi hành trong nước ta, ông Nguyễn Văn Thành là một người khai quốc công thần, chỉ vì cớ con ông ta đặt một bài thơ chơi, vậy mà các quan nịnh thần, đem thêu dệt ra, giết cả nhà ông ấy! Thết hời bộ luật ấy độc dữ biết chừng nào!). Từ đó nước ta, dân với vua cách nhau xa quá; các quan ở giữa muốn làm chi thời làm, dân không chỗ kêu ca. Từ triều Minh Mạng về sau, giặc giả nổi lên luôn; đến đời Tự Đức, Tây qua là mất nước,ông bà nhà Nguyễn, trong 200 năm mở mang gần nửa nước Nam, công đức lớn biết là bao nhiêu mà con cháu làm vua chỉ chưa đầy 50 năm, đã bị họa mất nước, là bởi cớ đó, thảm thay! Việc học hành thời hủ bại, nên học trò dốt nát, chỉ biết thi đậu làm quan để ăn cướp của dân, chẳng biết nước nhà là gì.

Vậy cho nên đến nay nước nhà một ngày một sa sút, càng ngày càng tàn mạt,chẳng còn đứng vào bực nào cả; nếu không bị nước Pháp lấy, thời cũng không biếtnước ta trôi nổi vào tay ai!

Cứ sự đã qua đó mà buộc tội, chẳng vua thời ai? Dẫu có anh thầy kiện miệnglưỡi giỏi thế nào, cũng không cãi cọ gì được.
Vậy nước ta từ nay về sau, còn nên tôn quân quyền nữa không? Không, chẳng những là vua không nên tôn, mà ngôi vua cũng nên cất đi kia. Vậy mà vua đến nay cũng còn, thương ôi! Cái trí khôn dân ta lu lấp, thua kém cả người thiên hạ, đã đành nên thương hại, mà cái lòng trung hậu nhịn nhục của nó cũng nên chuộng vậy!

Vậy thời đáng lẽ vua phải hết lòng lo lắng làm việc gì lợi ích cho thỏa lòng chúng nó một tí mới phải. Nay Bệ hạ thời không: lúc chưa làm vua, chẳng nghe có một điều gì là hay, mà sự xấu xa thời đã chán chường trước mắt thiên hạ, chỉ lo chạy ngược, chạy xuôi để lên làm vua cho được; đến lúc làm vua được rồi, chỉ làm việc cho nhân dân oán thán mà thôi. Vậy mà nay còn dựa hơi quyền nọ quyền kia, bắt buộc dân còn phải tôn mình nữa kia!

Chiếu theo luật xưa nay, dân Âu Á chúng nó bắt tội các vua của chúng, mà xử Bệ hạ, thời một cái giết, hay một cái đuổi, hai cái đó Bệ hạ không thể tránh được.

II. Hai là tội thưởng phạt không công bình

Thưởng phat là cái phép lớn của Triều đình. Mạng sống của dân, kỉ cương của nước, đều quan hệ ở đó cả. Đức Khổng Tử nói: “Hình phạt không nhằm phép, thờidân không có chỗ thò tay chân”. Mạnh Tử nói rằng: “Người trên không theo lẽ thẳng, người dưới không giữ phép luật, cái nước như thế, thời thế nào cũng phải mất”. Đời xưa thưởng người phải ở Triều, là tỏ ra người cả nước cùng thưởng,phạt người phải ở chợ, là tỏ ra người cả nước cùng phạt; nếu hai sự đó mà mất cả công bình, thời dân cần gì phải có vua có quan?

Tôi nghe đích rằng: Bọn tên X là bạn chơi bời lẳng lơ với Bệ hạ khi trước,khi bệ hạ làm vua rồi, thằng thời được thăng chức Thống chế để hầu hạ bên mình,thằng thời làm cho Tri phủ, Tri huyện, quan Tỉnh hay quan Kinh v.v… Lại nghe có anh quan Thị lang nọ, vợ anh ta có oán riêng với Bệ hạ lúc còn chưa là vua, khi Bệ hạ lên ngôi rồi, nhơn sự rủi ro nho nhỏ, anh ta bị cách chức đuổi về ngay.Lại một Thượng thơ hay rao bán những cái tịt riêng của Bệ hạ ra ngoài, nhân dịp đó mất chỗ dựa, Bệ hạ tìm cớ buộc tội nặng, xử 8 năm tù, án đã làm rồi, sau nghe anh này rút ra 5 vạn đồng bạc, lại được lại, giáng chưa đuổi về.

Vậy thời sự thưởng phạt, Bệ hạ cứ theo ý riêng của mình, chẳng cần gì phépnước, làm cho thêm sự gian dối lo lót ra. Vua như thế, thời vua làm gì?

Lại nghe Bệ hạ nuôi một tụi lính kín hơn 40 người, để mai chiều đi do thám chốn hương thôn, nơi thành thị, xem có ai gièm chê mình không? Nếu có, thời Bệ hạ hoặc là tìm cách buộc tội ngay, hoặc là dùng cách bí mật làm hại mà không cho người ta biết. Những quân đó rặt là quân côn đồ, cậy thế gần vua, làm điều phi pháp, khiến cho lương dân ai ai cũng sợ hãi, khóa mồm bịt miệng, ra đường gặp nhau chỉ lấy mắt trông nhau mà thôi, thiệt là làm cho nhân dân khổ sở thảm thê.

Xưa vua Lệ nhà Châu là người lắm nét xấu, sợ dân chỉ trích, mới đặt ra một cái phép để khỏi sự chê gièm, cũng làm như Bệ hạ vậy. Ông Thiệu Công can rằng:“Bịt miệng dân khó hơn là bịt miệng sông”, vua Lệ không nghe, sau quả bị dân giết. Sao Bệ hạ không lấy gương đó mà soi?

III. Ba là chuộng sự quỳ lạy

Cái quỳ lạy chẳng qua là để chỉ sự tôn kính đó mà thôi, ngoài ra chẳng có nghĩa lý gì cả. Một người ngồi đồ sộ ở trên, bao nhiêu người dưới phải áo mão dập đầu xuống đất, chẳng những là làm mất cái phẩm giá của loài người, mà lại làm cho người trên sinh lòng kiêu căng, người dưới mất lòng liêm sỉ, thật là một cái lễ phép rất là mọi rợ. (Lễ lạy đời xưa, một người lạy thời phải lạy trảlại, lễ đó hãy còn bên Nhật Bản, nhưng vì phiền quá, nay cũng bỏ).
Các nước văn minh đời bây giờ đều bỏ cái lễ ấy cả, chỉ còn một hai xứ Mường,Mán còn giữ lại mà thôi, thế mà nước ta đến nay vẫn còn giữ thói đó, thực làmột sự xấu hổ cho dân ta biết bao nhiêu.
Năm 1906, quan Tòan quyền Beau ra lệnh bỏ lạy, khốn nạn thay cho các quan lớn Việt Nam không biết xấu hổ, cứ bắt dân giữ cái thói cũ. Đến lúc quan toàn quyền Sarraut lại cấm lạy một lần nữa; nay Nam kỳ và Bắc kỳ đã bỏ cả rồi, mà Bệ hạ cũng cứ khư khư theo cái thói mọi rợ đó, chẳng những không bỏ, lại còn làm cho phô trương thêm ra, Bệ hạ làm hình như thèm cái lạy như thèm ăn uống một món gì ngon sướng lắm. Mỗi khi trong Triều có lễ chầu lạy thời Bệ hạ cho phép người nào chụp ảnh để bán cho khắp cả nước, những ảnh ấy đã truyền khắp cả thế giới.

Khi Bệ hạ qua Tây, các quan tiễn đến ga xe lửa Đà Nẵng, Bệ hạ cũng bắt làm lễ lạy; đến khi tàu tới Marseille cũng thế.


Lễ lạy không phải là lễ văn minh, vua cũng không phải là trời, quan và dân không phải là đày tớ mạt, ga xe lửa và bến tàu không phải chốn Triều đình, mà sao Bệ hạ dám bắt người ta vùi áo mão trong chốn lầm than, xem loài người như loài trâu ngựa, làm cho người ngoại quốc trông vào, chẳng những là chê cười Bệ hạ, mà lại mỉa mai khinh dễ nòi giống Việt Nam nữa. Những sự đó, phàm những người có nhiều ít trí khôn, biết được một tí văn minh thời bây giờ, chẳng ai chịu làm, mà Bệ hạ thời cứ vui vẻ tự đắc mà làm được, thực lạ quá! Vậy không phải một người ngu là gì?

Rất đổi Bệ hạ lạ cho phép người ta dùng thạch cao nắn thành hình người, như lúc Bệ hạ chịu chầu lạy trong lễ đại triều, để trong trường đấu xảo Marseille,Bệ hạ tưởng sự đó là quan trọng lắm hay sao, mà Bệ hạ dám đem ra khoe trước mắt thế gian? Tưởng làm thế nầy: Bệ hạ thời choảnh trên ngai thếp vàng chẳng chút khiêm nhượng nào cả, còn các quan lớn nhỏ râu tóc bạc phơ, cúi đầu khoanh tay mắt thời nhắm hi hí, khòm lưng đứng cả trước Bệ hạ, làm như hình một bầy rái cá đương tế cá, một bầy khỉ đương làm trò. Những người Âu có kiến thức, ai nấy cũng tức cười, vậy có chán ngán không?

Vậy thời Bệ hạ chẳng biết gì là xấu hổ sao? Bệ hạ chẳng quản gì danh tiếngcủa Bệ hạ mặc lòng, còn thể diện nước Nam thời sao?
Trong Kinh truyện rằng: “Những ông vua mà tính ý trái với thiên hạ cả, thế nào cũng bị người làm hại”. “Vua khinh dân như thể là con chó con ngựa, thời thế nào dân cũng coi vua như người đi đường”, (nghĩa là không tình nghĩa gì với vua). “Vua coi mạng dân như cái cỏ cái rác, thời dân cũng coi vua lại như người cừu thù”.
Vậy thời Bệ hạ chẳng qua là người qua đường, hay là người thù địch của dân Việt Nam đó mà thôi, muốn cho dân đừng làm hại đến mình sao được?

IV. Bốn là tội xa xỉ vô đạo

Sau khi Bệ hạ làm vua rồi, thời đã đem lòng chán chê những cung điện cũ ông bà đời trước để lại, liền làm ngay một sở cung điện nguy nga ở làng An Cựu, mua những đồ sứ của Tàu, mỗi lần vài ngàn bạc, đem về đập bể ra, lựa những miếng nào bông hoa đẹp, để gắn những hình con long, lân, qui, phụng, cho thỏa lòng xa xỉ của Bệ hạ. Lại đem bạc tiền thuê người Tây đúc ba, bốn cái tượng đồng của mình, phí tổn ước mỗi cái trên dưới nột vạn đồng bạc, để chưng trong nhà đấu xảo. Báu gì, xảo gì đồ đó mà đấu! Lại từ cái khăn, cái mũ, cho chí cái áo, cái giày, Bệ hạ đều đính vàng ngọc kim cương, giá phí biết là bao nhiêu! Rất đổi lấy vàng luột giát ra làm cái ủng để bao khắp chân, xa phí dại dột, từ xưa đến nay chưa có nghe ông vua nào làm như thế bao giờ.

Lại Bệ hạ lúc qua Tây, xuống tàu từ Tourane cho đến khi qua đến Tây, lúc ở trên tàu, gặp khách bộ hành nào thời những rượu sâm banh hạng nhất là đãi cho thả cửa, chỉ nói những tiền cho “buộc boa” (pourboire) cũng đến 20.000 quan,còn kim tiền kim, khánh thời đụng cho ai nấy, chẳng kể sao hết được.

Ai còn lạ gì, khi Bệ hạ chưa làm vua, trong túi chẳng có một xu, vậy thờitiền đó ở đâu mà tới? Chẳng phải Bệ hạ ăn cắp tiền kho, tiền kín của nước ta,thời tiền đâu?

(Trở lên là sao y bản dịch thủ bút của Cụ Tây Hồ còn giữ được.Dưới đây là ông Lê Ấm dịch tiếp ở bản thủ bút Hán văn)
Than ôi! Ở Trung kỳ nước ta, nông dân thời nghèo khổ đến cực điểm, thiên tai tới tấp, oan vong thường thấy, quan tham lại nhiễu, đất xấu dân cùng, lại thêm trong lúc giặc giã, vật giá cao vọt, tình trạng lưu ly đến nay chưa cứu vớt,xâu thuế nặng nề, gánh vác không nổi; nói đến việc mở mang trí khôn, việc nâng đỡ đời sống thời còn xa lắc xa lơ, sánh với Nam, Bắc kỳ, bên khô bên tươi cũng đã rõ rệt rồi. Thế mà ngân sách còn kêu thiếu hụt, ép dân mua rượu, thuốc phiện để làm giàu công quỹ, trắng trợn như thế còn phải làm, còn nói chi nữa.

Chẳng nói đâu xa, những năm 1916, 1917, 1918 là sau khi Bệ hạ đã lên ngôi rồi, dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão to lụt lớn hạn lâu, nên phải chết đói, chết dịch, trên báo chương kêu vang luôn, thảm thương như thế còn gì hơn nữa! Nhưng mà chưa từng nghe Bệ hạ làm được một việc từ thiện nào để cứu người sống sót, bố thí một đồng xu nào để giúp kẻ khốn cùng! Như vậy thời Bệ hạ đã dứt hết tình nghĩa với quốc dân ta từ lâu rồi, mà nay lại dám ăn cắp của nước làm của riêng, xa xỉ bậy bả, vứt tiền vào chỗ trống không. Chỉ lấy một việc ấy mà nói, Bệ hạ còn mặt mũi nào,còn tư cách nào mà tự xưng là vua của dân ta?

Giả sử như Bệ hạ lấy tiền làm cung điện đó mà lập một trường Đại học tại Huế, lấy tiền mua mua đồ sứ để đập bể đó mà mua đồ dùng cho nhà trường, lại lấy tiền phung phí dưới nuôi học sinh lưu học tại Pháp cũng được vài mươi người,thời hai cách dùng tiền lợi hại khác nhau biết là bao nhiêu!

Thương hại thay! Quốc dân ta mỗi năm cần cù, đổ mồ hôi sa nước mắt, vợ kêu đói con khóc lạnh, cũng mặc, thân rách lưới, bụng xép ve, cũng mặc, chỉ lo chạy ngược chạy xuôi cho có tiền để nạp thuế cho nhà nước, mà cũng có lòng mong nhà nước làm được điều gì ích lợi chăng? Nhưng mà khi thu thì vơ vét tận xương tủy,đến khi tiêu thì vãi tung như tro bụi như thế thời quốc dân ta tội gì mà phải chịu cực khổ, dâng của cải, máu mủ để cho một người vua u mê tiêu phá một cách dại dột như thế?

Trong khi Bệ hạ vung vãi bậy bạ đó, Bệ hạ há không nghe việc làm của vị tổng thống Trung Hoa là ông Lê Nguyên Hồng sao? Ông ấy thấy kho nhà nước thiếu hụt,thời tự nguyện đem tiền lương của mình hơn 3 triệu rưỡi quan tiền Pháp, trả lạicho quốc dân để đem làm việc từ thiện, các báo Pháp khen ngợi không ngớt.

Ôi! Tàu là một nước đất đai rộng, sản vật nhiều, dân số đông hơn hết trênthế giới, lại là một nước độc lập, họ đói nghèo, không phải là cùng vô sở xuất,thế mà đường đường một vị Tổng Thống một nước lớn, biết yêu nước, biết lo dân,còn không muốn lãnh số lương hằng năm được hưởng, để cho quốc dân bớt gánh nặn gthay; huống chi nay Bệ hạ là vua một nước bị bảo hộ, vị thứ ở dưới quan Toàn quyền, danh hiệu chỉ có trong 12 tỉnh, công nghiệp không hơn gì một tên dân mạt, mà lại dám tự sánh mình như vua trời, việc làm như trộm cướp, ngoài lương bổng ra, còn thêm phí tổn làm cung thất, lại còn tiêu xài bậy bạ nữa, thế là nghĩa lý gì?

Bệ hạ viết thư cho Bộ Trưởng Thuộc địa có câu xưng là “cha mẹ dân”, thử hỏi nước ta xưa nay vốn trọng luân lý gia đình, mà có đâu thứ cha mẹ tàn nhẫn bất lương như vậy? Đổi lại, phải nói là thằng giặc của dân thời đúng hơn. Đó là bốn tội.

V. Năm là phục sức không đúng phép

Bệ hạ tự chế ra một thứ lễ phục kiểu mới, tự mặc ra để ra Triều. Kiểu ấy là trên áo cẩm bào cũ, thêu vào cái cầu vai kiểu Âu, còn cổ áo và tay áo thời đính vài ngọc lòe loẹt, Âu không ra Âu, Á không ra Á, lại trên nón vua thời thêu thêm những hình rồng phụng sáng ngời. Nghe nói khi Đại tướng Jofre qua nước ta, Bệ hạ mặc đồ ấy mà đón tiếp; bây giờ qua Pháp, khi đến điếu mộ danh nhân tử sĩ,cũng mặc đồ ấy. Cũng may là người Pháp ít để ý đến lễ chế nước ta, nên khôngbiết đó thôi, nếu có người hơi rõ, gạn hỏi rằng, Bệ hạ ăn mặc như vậy quả có đúng với lễ phục nhà binh nước Nam không? Thời chẳng biết trả lời thế nào được.

Thử xem các nước trên thế giới, về lễ phục thời nước nào cũng có qui định,khi tiếp khách, khi duyệt binh, khi triều, khi hội, lễ phục có quan hệ đến quốcthể; phàm người ra làm việc công đều không được vượt khỏi, nếu không thận trọngmột chút, thời đối ngoại mang nổi nhục thất lễ, đối nội mang cái tội trái phép.Ở nước ta trước kia phép nọ cũng rất chặt chẽ, từ vua đến dân đều có thể chế,chép lại ở hội điễn, ban bố làm lệnh chung, nếu ai sai vượt thời hình phạt theo ngay.

Nếu nói rằng cách mặc xưa không hợp với đời nay, phải cải cách cho hợp thời,thời đó không phải việc không nên làm. Xem như Tàu với Nhật công phục đều theolối Âu Châu thời sao? Nhưng phải đặt làm thể thức nhất định, trên dưới mộtloạt, thay đổi theo mới, lấy lệ công bố ra ai nấy đều phải theo, như vậy thờisao lại không nên?
Nay Bệ hạ lại trái hẳn, tự chế tự mặc, chỉ lo làm sang một mình, người trongnước xem vào không gì là chính đính, lại làm cho tai mắt người ngoài lầm lạc,đã sai phép bang giao, lại làm nhục quốc thể, chiếu luật pháp nước nhà, phảichịu điễn hình. Đó là năm tội.

VI. Sáu là du hạnh vô độ

Sau khi Bệ hạ lên ngôi, thời ra sức khuếch trương nghi trượng nhà vua,thường thường ra đi chơi rông, nào là voi, nào là kiệu, nào là xe nào là ngựa,những người theo hầu, nhiều khi đến hàng trăm, ít cũng ba bốn chục, chiều lạirong chơi thành thị. Trang sức lộng lẫy, nghi thức oai nghiêm, quân hầu nghênhngang, nước ta bốn mươi năm chưa từng có. Người đi đường khổ việc chạy tránh,dân trong nhà chán sự hầu phần, còn Bệ hạ thời dương dương tự đắc, ý muốn tỏcho người ta biết rằng Hoàng đế là sang.

Xét luật pháp các nước văn minh, không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụkèm theo. Nay Bệ hạ tự tôn quân quyền, tự ý làm oai làm phúc, chính trị bỏ lỡkhông mảy may lưu tâm đến. Nhân dân đói lạnh chẳng chút hỏi han, mà lại ngàyngày chơi rông, kiêu căng buông lung, thời còn trách kẻ bầy tôi sao được? Bệ hạthì cao quý lắm đó, còn quốc dân đau khổ thì sao?

Như vậy là chỉ biết quyền lợi, mà không biềt có nghĩa vụ, chiếu theo luật,hễ không làm hết nghĩa vụ thời phải chịu trách nhiệm là cái tội hại nước hạidân, Bệ hạ phải chịu là thủ phạm trước hết. Đó là sáu tội.

VII. Bảy là việc Pháp du ám muội
Bệ hạ qua Pháp chuyến này, người ta kẻ nào có lưu tâm đến quốc sự, phầnnhiều phải suy nghĩ, trước thời ngờ sau thời lo, khi đã biết rồi thời ngó nhaumà cười mĩm.

Mượn cớ rằng đưa Hoàng tử đi học, hoặc đi điếu quân sĩ nước ta tử trận, vàđi xem các thành phố phía Bắc nước Pháp bị tàn phá, thời những việc đó đều làviệc tư của Bệ hạ, không phải việc công của quốc dân ta, lại đó là việc khôngcần kíp gì cả.

Nếu mượn cớ rằng đi du lịch nước Pháp, để khảo sát văn minh của họ rồi đểcải cách chính trị trong nước, thời Bệ hạ không phải là tay làm việc ấy được.Sao vậy? Vì nước Pháp là nước dân chủ, mà Bệ hạ là vua tôn quân quyền, lấy cánvuông mà đút vào lỗ tròn, chỉ có cái hại làm cho hư cán mà thôi. Vả chăng Bệ hạkhông am hiểu tiếng Pháp, mà mấy ông đại thần đem theo, như tên X tên Y đều làbọn hạ tiện nước ta, trí thức họ còn thấp hơn con nít 10 tuổi của Pháp. Lạitrong khi Bệ hạ ở Ba Lê, chỉ có một lần đến trường đua ngựa, cá được 200 quan,còn như những Viện Bác cổ lớn, học đường lớn, thương quán lớn, công xưởng lớn,và những nơi nhóm họp bao nhiêu văn minh tinh túy của nước Pháp v.v… thời chưatừng bước chân vào, nói rằng đi khảo sát, thời khảo sát mà như vậy ư?

Nếu mượn cớ rằng đi dự cuộc đấu xảo Thuộc địa Marseille, thời nước ta là ngày nay có cái xảo để đấu, phi người Bắc kỳ thì thời Nam kỳ là dân ở dưới quyền trực trị của pháp vậy (đấu xảo này Trung kỳ có nghề bện sáo, so với 50năm về trước chưa cải lương chút nào), còn 12 tỉnh Trung kỳ là cái xứ ở dưới quyền chuyên chế của Bệ hạ, thời sĩ phu lòng đen như mực, nông dân xương gầy như củi, có gì là xảo đâu! Chỉ duy đại thần và quan lại của Bệ hạ, thời cái xảo quỳ lạy, cái xảo dua nịnh, cái xảo ăn hối lộ, cái xảo xẻo thịt dân để ăn cho béo cho mập, nhưng tiếc thay! Cái loài quỷ sứ ấy, thời tại Pháp đây, sáu bảy mươi năm về trước, họ đã nhận xuống nước sâu, ném vào lửa đỏ cả rồi, nay Bệ hạđem loài ấy qua, thời không ai còn mà đấu nữa!

Như vậy trong cái màn hắc ám của chuyến du lịch nầy của Bệ hạ, công sắp đặtquỷ quyệt thế nào, cũng không khó gì mà không biết vậy.

Nghe Bệ hạ vài năm trước đây, đã cậy oai chuyên chế, vơ vét của dân, mua đồ xa xỉ hạng nhất của các nước Á Đông và nước mình, tóm thâu tất cả đồ quý báu của các triều trước để lại, chứa đựng có hơn trăm hòm, ngày nay đem cả theo,nhờ người Pháp tên X tên Y vận động, dâng lễ cho đảng quân chủ nước Pháp, để nhờ củng cố ngôi vua cho cha con Bệ hạ và nhờ họ làm hậu viện để mong đạt cái mộng tôn quân quyền, sau thành việc rồi Bệ hạ về nước sẽ thi oai dâm bạo, khóa hết miệng lưỡi quốc dân, rồi sẽ ký điều ước này điều ước nọ để đền đáp. Việc nầy tuy còn ở trong vòng bí mật, nhưng người ta đã đồn rầm ở ngoài, không phảilà không có cớ, theo lời tục ngữ của Pháp “không có lửa mà có khói” ai tin!

Tuy nhiên, nếu Bệ hạ mà dùng kế ấy, há chẳng thất sách lắm sao? Bệ hạ muốn giữ vững ngôi quân chủ, mà lại đi cầu khẩn với dân của một nước dân chủ, Trinh này muốn biết muôn phần không có một phần nào thành công được.

Cái bệnh của Bệ hạ là bởi ngu muội, chưa từng đọc lịch sử cách mạng nước Pháp vậy. Nếu một mai biết được thời sẽ gục đầu chán nản, cuốn gói mà về sớm vậy.

Cuối thế kỉ 18, cái oai chuyên chế của nền quân chủ Âu châu đã lên đến tột bực, thưởng phạt tùy ý, trẩm tức quốc gia, xem nhân dân như nô bộc, vãi tiền tài như đất bụi, cung thất huy hoàng, chơi bời xa xỉ, ăn mặc hoa mỹ, quỳ lạy tôn nghiêm, thật không phải là một ông vua một nước mang hư danh là bán tự chủ như Bệ hạ có thể tưởng tượng được. Thế mà hễ vật đã cực thời phản lại, đó là lẽ tất nhiên. Buổi ấy các danh sĩ nước Pháp, như Lư Thoa, Mạnh-Đức-Tư-Cưu,Phúc-Lộc-Đặc-Nhỉ, v.v… kế tiếp nhau nổi lên phát huy cái nghĩa nhân quyền,chẳng vài mươi năm mà cái thế lực ảnh hưởng ra khắp toàn Âu. Dân tộc Pháp là tiên tiến nhất, huơ tay kêu lớn, ứng lại như vang, ngã rồi đứng dậy, càng tiến càng hăng, cho nên tấu được khúc khải hoàn, mà cái đầu của vua Lộ-Dịch thứ 16của nước Pháp đã bêu cao trên đoạn đầu đài vậy. Bệ hạ qua thành Ba-lê, trông những đường phố rộng rãi, thấy có những tượng đồng nguy nga, đó đều là những tượng kỉ niệm những bậc thánh hiền hào kiệt đương thời đã ủng hộ tự do, cứu vớt mạng dân vậy. Phàm trong thế giới, quân chủ nào vô đạo thì thần ấy chẳng dung.Bệ hạ nên qua chơi công trường Công-cố (Concordre) và cung điện Versailles (Lộ dịch đã bị bắt ở Versailles và bị giết ở Công-cố) để điếu cái di tích màn chót nên quân chủ vô đạo, nhơn đó họa may có tự tỉnh chăng.

Từ thời ấy, chính thể nước Pháp đổi làm dân chủ, lập ra nghị viện dân cử,lập pháp, hành pháp, tư pháp, phân tách rõ ràng, mà nghị viện nắm hết chủ quyền của nước. Đến nay, chính phủ chuyên chế không còn dấu vết, nhân loại trông nhiều nước được hưởng nhiều hạnh phúc, tự do là nhờ dân tộc Pháp chảy máu trước mà được vậy. Sao Bệ hạ không xin vào điện Bourbon để nhận thấy cái khí tượng bác ái, bình đẳng, tự do của quốc dân cộng hòa, so sánh lại với cái chính thể chuyên chế đen tối ngàn năm của nước ta, thời thấy rõ cái chủ nghĩa dân quyền thần thánh bất khả xâm phạm, nó đương bồng bồng bột bột như mặt trời giữa trưa,chiếu thấu cả bầu trời, mà về sau chính thể quân chủ tất không có chỗ đứng chân còn nói chi đến việc chuyên chế dã man nữa.

Được như vậy chẳng phải sức người làm nên chăng? Thì đó cũng là luật thiên diễn không thể tránh được vậy.

Ngày nay các dân tộc trên toàn cầu đều xưng nước Pháp là nước tổ dân quyền,không đúng hay sao? Không đúng hay sao?

Đó, một nước danh dự như thế, một dân tộc danh dự như thế, xem lại hơn trăm hòm đồ quý của bệ hạ đáng giá bao nhiêu, lại dám đem bạch bích mà nhem thèm,đem huỳnh kim mà làm đen lòng, đi ngược lại phong triều thế giới, trái với công lý nhân đạo, làm dơ danh dự quốc dân, để vì Bệ hạ giữ cái vận mạng của nền quân chủ chuyên chế nó đã gần tàn như giọt sương ban mai rồi. Nói rằng 20 triệu quốc dân oán là chuyện nhỏ, còn mặt mũi nào đối với vạn quốc trên thế giới ư? Xem vậy Bệ hạ đi chuyến này chắc chắn là thất bại, không còn ngờ gì nữa. Chỉ tiếc thay bao nhiêu mỡ của sáu, bảy triệu quốc dân ta, bao nhiêu cái kho tàng quý báu của nước nhà ta dành dụm mấy trăm năn nay, chỉ vì sự lơ lĩnh nhỏ nhen mà Bệ hạ đem vứt đi một cái, làm chìm lỉm hết thảy theo ngọn sóng Tây dương! Đó là bảy tội.

Trở lên bảy điều, bởi có quan hệ quốc kế dân sinh, nên kể ra để buộc tội.Ngoài ra còn những điều xấu xa không thể kể xiết, bởi không quan hệ việc nước cho lắm, hoặc có dính đến đời tư cá nhân nên không kể đến làm gì.

Ôi! Thế giới ngày nay dân trí tiến bộ mỗi ngày ngàn dặm, trước vài mươi năm nay, vua các nước lập hiến đã đem mọi chánh sự lớn nhỏ của quốc gia, hai tay dâng trả lại cho quốc dân, không dám hỏi đến, duy ngày đêm mong ước được giữ cái hư danh ở trên thần dân, khỏi mất nối dòng để xấu hổ đến tôn miếu, thời đã coi là cái phước lớn tày trời rồi, nhưng đến nay quốc dân họ còn lấy làm khó chịu, còn lo trăm kế để bỏ đi, để đạt được đến cái chủ nghĩa bình dân chân chánh mới hả dạ.

Vậy thời từ nay cái tàn quân chủ trong thế giới cũng không xa mấy, không cần phải khôn ngoan lắm mới biết vậy. Chẳng nói đâu xa, gần đây trong thời Âu chiến, bị quốc dân giết hoặc đuổi đi đã có 38 vua, trong đó có 3 ông Đại hoàng đế rồi.

Như trước đã nói, chính thể nước ta, từ xưa là quân chủ độc tài, chính trị hay dở, quan lại hiền ngu, quốc dân không được hỏi đến. Nay thời thế nước càng ngày càng suy vi, mất cả cái tên Việt Nam trong bản đồ thế giới. Hãy xem các nước Á Đông, Tàu, Nhật không nói, còn Xiêm La là một nước xưa kia dân ta không thèm đứng ngang hàng, thế mà nay họ nghiễm nhiên đứng trong vòng bình đẳng với vạn quốc. Lại như Nam Bắc hai kỳ ở dưới quyền kinh lý của nước Pháp ràng buộc có rộng rãi hơn, nên có sinh sắc hơn. Còn 12 tỉnh Trung Kì thời rên rỉ mãi dưới chính thể chuyên chế vô trách nhiệm, không biết dựa vào đâu để nuối chút hơi tàn! Đó là tội của ai? Tội của ai? Xem đó thời chẳng quân chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời quân chủ các thời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của quốc dân vậy.
Ôi! Xu thế bên ngoài đã như thế kia, mà tình thế nước ta lại như thế này,thời cái ngôi Bệ hạ đã nguy tợ như trứng mỏng, thật có như điều Hiếu Đế nhà Hán đã nói: “Mạng của Trẩm chẳng biết mất còn ngày nào đây!”. Vậy Bệ hạ còn mê muội không biết, tự ví mình với thần thánh, dắt bầy tiểu nhân núp bóng làm càn, công nhiên buông thói ăn lo ăn lót, người ta không nói không kể, dân nói không hay,lại còn nghịch thì thế, trái nhân tâm, nhen lại bếp tro tàn chuyên chế, dứt hẳncái dân khí đã tôn thương lâu ngày, quơ hết châu báu của nước, quét sạch tài sản của dân. Thử hỏi: quốc thổ Việt Nam có phải là tư sản của Bệ hạ hay sao? 20triệu quốc dân há phải là gia bộc của Bệ hạ hay sao? Quan lại nước ta mục nát còn sợ chưa quá chừng hay chăng, mà còn phải có thêm Bệ hạ trướng thêm lòng gian tham nữa? Danh hiệu Việt Nam e còn chưa nhơ nhuốc chăng mà còn phải có Bệ hạ ra dâng mùi hôi thúi, làm cho thiên hạ chê cười khinh dễ chẳng còn kể là loài người nữa? Dầu mỡ của quốc dân ta sợ chưa khô hết hay chăng, mà còn phải có Bệ hạ hoang phí vung vãi nữa? Than ôi! Nước ta tội gì mà phải chịu cái nghiệp chướng ấy! Dân ta tội gì mà phải đội thứ vua quỷ ấy! Nếu không cùng quần chúng trừ khử nó đi, tất phải cùng nó chết đắm nay mai thôi!

Tôi viết đến đây, viết đã cùn tay đã mỏi, giấy đã hết mà điều tôi muốn nói hãy còn chưa hết, tôi phải khăng khăng mấy ngàn lời mà không thôi đó, chẳng phải công kích cá nhân Bệ hạ mà công kích hôn quân vậy; cũng không phải vì tư kỉ của Trinh mà làm; thật là vì 20 triệu đồng bào mà xô ngã chuyên chế, ủng hộ tự do vậy. Thầy Mạnh nói rằng: “Đâu phải ưa biện luận, bất đắc dĩ mà thôi”, tâm sự của tôi cũng là thế đó.

Nếu như Bệ hạ có đủ thiên lương, chút biết hối ngộ, biết quân quyền không thể cậy được, dân oán không thể khi được, thời phải sớm quay về, tự thoái vị trước, đem chính quyền trả lại cho quốc dân ta, để họ trực tiếp cùng dân tộc Pháp, tự mưu lấy lợi ích của họ, như vậy thời quốc dân ta còn lượng tình, không bạc đãi, cái kế Bệ hạ không còn kế nào hơn.

Ví bằng chuyến đi này, thêm lòng táo bạo, không kể gì hết, cứ khư khư cắp ngôi chí tôn, cứ thi oai chuyên chế, làm đứt mạng mạch của nước trong cơn thùy nguy, đánh đắm quốc dân trong kiếp khổ lâu dài, nếu vậy thời Trinh này tất phải: trong cáo với quốc dân, ngoài hiệp cùng với nước Pháp, vì 20 triệu đồng bào, cùng Bệ hạ tuyên chiến quyết liệt, nguyện cho cái đầu của Trinh cùng với quân quyền chuyên chế dã man của Bệ hạ đồng thời rơi xuống đất, quyết không nỡ thấy vài mươi vạn dặm vuông giang san đất nước, vài mươi triệu cha mẹ anh em,phải giao đứt vào tay hôn quân vậy!

Marseille, ngày 14 thàng 7 năm 1922

Ký tên: Phan Châu Trinh


Ghi chú:
1) Thư này viết một bản bằng Hán văn gởi Bệ hạ, lại dịch ra Pháp văn đăng trên báo Pháp và rải truyền đơn, để rộng đường công luận của người Pháp.

2) Giữa tôi với Bệ hạ, đã đoạn tuyệt nhất thiết quan hệ, chỉ đứng trên địa vị đối đãi mà thôi, cho nên nói “gởi” mà không nói “dâng”; còn dùng hai chữ “Bệ hạ” đó là theo Hán văn, xưng hô như vậy cho tiện, chứ không phải là tôn kính đâu.

3) Tôi là người phục tùng Nho giáo, nên không dùng thứ lễ chuyên chế đặt ra từ Tần Thỉ Hoàng về sau (Thỉ Hoàng đốt sách chôn học trò, Khổng giáo đã mất), lễ ấy là hể gặp chữ tên húy của nhà vua thời phải tránh, cho nên đây tôi viết thẳng không kiêng, là tỏ ý phản đối (Nhật Bản đã bỏ lâu rồi, chỉ có ta còn giữ lối đó).



Nguồn: Thư thất điều, NXB Anh Minh, 1958, Huế http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/thu_that_dieu.html


Monday, January 19, 2015

Potala Palace - Lhasa












Ngay sau ngày tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa (1.10.1949), Mao Trạch Đông đã tung Dã chiến quân số 2 (600.000 quân) đánh chiếm những vùng đất còn lại ở phía Đại Tây Nam và mở cuộc tấn công vũ trang lên dãy Hymalaya để… “giải phóng hòa bình Tây Tạng”! và để nhìn vào những bí ẩn dưới điện Potala...

Sách Mao Mao viết: "Mao Trạch Đông hạ lệnh cho đại quân Lưu - Đặng (Lưu Bá Thừa và Đặng Tiểu Bình) đảm nhận nhiệm vụ tiến quân vào Tây Tạng” ( tr. 835).

Họ lần lượt đánh chiếm Trùng Khánh (30.11.1949), Thành Đô (27.12.1949) và mở đường áp sát phía đông dãy Hymalaya đầu năm 1950. Đến tháng 10 năm đó, phát động chiến dịch Xuyên Đô trong 18 ngày “tiêu diệt 5.700 quân Tạng và mở toang cánh cửa tiến vào Tây Tạng”. Vậy là, sau một năm hành quân, họ chiếm được “bệ phóng” chiến lược dưới chân dãy Hymalaya để uy hiếp Tây Tạng về mặt quân sự. Mao Trạch Đông kết hợp thêm đòn chính trị: vận động một số đại biểu Tây Tạng do Abay Anang Dích Mê làm trưởng đoàn đến Bắc Kinh đàm phán. Kết quả: “ngày 23.5.1951, hai bên ký kết Hiệp nghị về các biện pháp giải phóng hòa bình Tây Tạng”. Vận dụng một trong các biện pháp “giải phóng hòa bình” của Hiệp nghị trên, Mao Trạch Đông ra lệnh triển khai đội hình, chuẩn bị lương thực khí tài đầy đủ trong hai tháng 6 và 7 để “đến tháng 8 và 9.1951 bộ đội Lưu - Đặng bắt đầu tiến quân lên nóc nhà thế giới - họ vượt qua nhiều gềnh thác, xuyên qua nhiều khu rừng nguyên thủy và vùng thảo nguyên đầm lầy mênh mông, chịu đựng giá rét và không khí loãng, tới tháng 10 - 11 năm ấy đặt chân tới Lasha - thủ phủ của Tây Tạng” (Mao Mao, sđd. tr. 835).

Từ đó, các chuyển biến thời cuộc nối theo đã biến Tây Tạng thành một khu tự trị của Trung Quốc vào năm 1965, chiếm 12,8% tổng diện tích lục địa, phía bắc giáp Tân Cương và Thanh Hải, phía đông - đông nam nối liền tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam. Riêng “phía nam và phía tây có chung đường biên giới với Ấn Độ, Miến Điện, Bu-tan, Xích-kim và Nê-pan, hình thành một đường biên giới tổng cộng dài gần 4.000km, vị trí chiến lược hết sức quan trọng, có thể nói ổn định của Tây Tạng liên quan đến sự ổn định và an ninh của miền tây Trung Quốc”. Chỉ xét riêng “vị trí nhạy cảm” đó cũng đủ để Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải xem Tây Tạng là “một quân cờ mà chính phủ Trung Quốc không thể coi nhẹ” (Mã Linh - Lý Minh, sđd., tr.203-204). Ngược lại:

Đạt-lai Lạt-ma không xem Tây Tạng là “quân cờ” trên “bàn cờ bành trướng” của Mao. Ngài phải rời Tây Tạng và trên đường lưu vong được tổng thống Mỹ Bill Clinton đón tiếp. Bill Clinton viết: “tôi ủng hộ có thêm tự do chính trị ở Trung Quốc và vừa mời ngài Đạt-lai Lạt-ma (và nhà hoạt động vì nhân quyền ở Hồng Kông là Martin Lee) đến Nhà Trắng để nêu bật sự ủng hộ của tôi đối với sự toàn vẹn về văn hóa và tôn giáo ở Tây Tạng - (cũng như duy trì nền dân chủ ở Hồng Kông)”- Bill Clinton, sđd Kỳ 78, tr. 1.077. Tiếp đó, trong chuyến viếng thăm Trung Quốc tháng 6.1998, Bill Clinton thảo luận với chủ tịch Giang Trạch Dân và đã “thúc giục ông (Giang Trạch Dân) gặp gỡ với Đạt-lai Lạt-ma - Giang Trạch Dân nói cánh cửa Trung Quốc rộng mở, nếu Đạt-lai Lạt-ma tuyên bố trước rằng Tây Tạng và Đài Loan là một phần của Trung Quốc” (Bill Clinton, sđd. tr. 1.125).

Song, Đạt-lai Lạt-ma không bao giờ tuyên bố như vậy. Ngài không chấp nhận “Tây Tạng là một phần của Trung Quốc” và luôn giữ lập trường về một nước Tây Tạng độc lập. Sống ở nước ngoài như trường hợp của ngài Đạt-lai Lạt-ma còn có những nhân vật quan trọng khác của Lasha đang nắm giữ nhiều bí mật về đất nước Tây Tạng. Có thể đọc thấy vài điều liên quan đến những bí mật đó qua cuốn “Các Lạt-ma hóa thân”. (Hồi ức Lobsang Rampa - Lê Nguyễn dịch từ bản in của NXB Thượng Hải - NXB VHTT, Hà Nội 2003), với đoạn tiết lộ bí ẩn dưới lòng đất của điện Potala ở Lasha (trích): “Điện Potala là một cung điện khổng lồ xây trên một ngọn đồi (…) trên nền móng của một cung điện cũ. Tại sao người ta lại dựng nó ở trên một cung điện cũ như thế? Điều này vẫn là một bí mật của xứ Tây Tạng. Ngọn núi này xưa kia là một hỏa sơn có chứa trong lòng nó những hang động bí mật với hàng ngàn đường hầm tỏa ra tứ phía. Có những hang động cất giấu nhiều tài liệu cổ hàng chục thế kỷ trước. Có những kho chứa châu báu vàng bạc từ thời đại xa xưa. Rất ít ai biết đến chỗ này”.
Tác giả tài liệu trên được sư phụ của mình (vốn rất thân cận với ngài Đạt-lai Lạt-ma) dẫn đến điện Potala, đi qua dãy hành lang tối đến một vòm cửa khá rộng. Đàng sau cánh cửa được đẩy ra là một miệng hầm sâu hun hút dẫn đến những con đường “dài như vô tận” mà ngay cả những vị lãnh đạo trong hội đồng tôn giáo cũng không được phép đặt chân đến nếu đức Đạt-lai Lạt-ma chưa đồng ý. Tác giả tường thuật tiếp:

“Chúng tôi đi mãi vẫn không thấy đáy, trên vách đá có ghi khắc những hình kỷ hà lạ lùng mà tôi không biết là hình gì. Sau cùng chúng tôi đến một cái hồ nằm sâu trong lòng đất, lúc đầu mặt hồ còn nhỏ nhưng sau rộng lớn dần cho đến khi tầm xa của nó chìm hẳn trong bóng tôi - ánh sáng của ngọn đuốc không soi tới được. Nước hồ đen như mực, người ta có cảm giác rằng đó không phải là một cái hồ mà là một vực sâu không đáy”. Sự hình thành của cái hồ kỳ lạ bí ẩn được giải thích: “Sở dĩ có hồ này vì trước kia, nơi đây chính là miệng một hỏa sơn to lớn. Qua các trận địa chấn, miệng núi lửa bị lấp bớt đi một phần, người ta lại xây dựng một cung điện úp lên trên miệng núi nên không còn ai thấy dấu tích hỏa sơn kia đâu nữa. Vì diện tích hồ hoàn toàn nằm sâu trong lòng đất, không một cơn gió, không một tia sáng lọt vào, nên mặt hồ lặng lẽ, không gợn sóng. Ánh sáng ngọn đuốc trên vách đá phản chiếu những màu sắc vàng lấp lánh. Tôi đến gần xem bỗng sững người, thì ra đó là những mạch vàng lớn khoảng mấy chục thước bề ngang. Ngày xưa nhiệt độ cao đã làm vàng chảy ra như sáp nến sau nguội dần và đông đặc lại thành những mạch vàng dài như một con rồng uốn khúc”. Sư phụ nói: - “Bây giờ chắc con hiểu tại sao người ta xây một cung điện khủng lồ lên trên miệng núi lửa rồi chứ? Sở dĩ phải làm thế vì đây là một mỏ vàng lộ thiên lớn chưa từng thấy. Đa số các pho tượng Phật đều đúc bằng vàng khối vì vàng ở đây rất nhiều. Nhưng nếu không biết che giấu, Tây Tạng có thể trở nên một chiến trường đẫm máu do lòng tham vô độ của con người”. Giá trị của các tiết lộ trên gắn liền với xuất thân và sứ mệnh đặc biệt của tác giả: Lobsang Rampa. Vậy Lobsang Rampa là ai?

Xác ướp của các lạt-ma Tây Tạng



Dưới thời Mao Trạch Đông, hồng vệ binh kéo đến xâm hại ngôi chùa cổ Trát-thập Luân-bố do ngài Đạt-lai Lạt-ma đời thứ nhất dựng lên (từ năm 1447) – nơi có ngôi tháp nạm ngọc thờ di thể các Ban thiền được giữ gìn nguyên vẹn theo bí thuật ướp xác Tây Tạng...

Lobsang Rampa tiếp tục thông tin về cách ướp xác theo kỹ thuật bí truyền Tây Tạng tóm lược trong bài viết này.

Song trước hết, có lẽ các độc giả cũng cần biết xuất thân và hành trạng của ngài Lobsang Rampa qua các câu trích dẫn từ nguyên văn bản dịch (trong ngoặc kép) với phần hồi ức của ngài Rampa (theo cuốn “Các lạt-ma hóa thân”, 355 trang- sđd. Kỳ 80) do Lê Nguyễn dịch, dưới đây: Lobsang Rampa là một vị lạt-ma hóa thân, tái sinh trong một gia đình quý tộc “có thế lực vào bậc nhất Tây Tạng”. Thân phụ của ngài Rampa lãnh đạo guồng máy hành chánh của nhà nước Tây Tạng (vào trước thời Mao Trạch Đông chuyển đổi Tây Tạng thành khu tự trị):

“Đứng đầu quốc gia và giáo hội là đức Đạt-lai Lạt-ma còn gọi Phật sống. Ngài vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là nhà lãnh đạo tôn giáo và thẩm phán tối cao của nền công lý xứ này. Tóm lại, ngài nắm trọn quyền lập pháp, hành pháp và cả tư pháp nữa.


Dưới quyền lãnh đạo của Đạt-lai Lạt-ma có hai hội đồng: Hội đồng tôn giáo gồm 4 vị lạt-ma trưởng lão trông nom vấn đề tôn giáo. Hội đồng nội các gồm 4 vị tổng trưởng mà trong đó một người là tu sĩ, 3 người kia là dân sự chịu trách nhiệm cai trị toàn xứ. Cha tôi (phụ thân ngài Lobsang Rampa) là người đứng đầu Hội đồng nội các - là thủ tướng. Dưới Hội đồng nội các còn một quốc hội gồm 120 người nghị viên đại diện cho 120 làng mạc trong nước, các nghị viên này phần lớn là tu sĩ” (Lobsang Rampa - sđd tr.17).
Quá bận rộn vì chức trách trên, thân phụ của Rampa đã giao ngài cho võ sư Tzu (là người có sức mạnh “nhấc bổng một con trâu Yak lên khỏi mặt đất”) huấn luyện và giám thị ngài từ lúc mới lên bốn tuổi.
Đến sinh nhật lần thứ 7 của Rampa có hơn 200 người được phái lên các ngọn núi tuyết cao vọi, vắng vẻ để cất công tìm hái những bông sen hiếm hoi mọc trong tuyết (tuyết liên) về ngâm với mật ong, trộn chung cùng các dược thảo Tạng truyền, vớt ra và phơi giữa trời cho gió thổi khô đi, giòn ngọt. Món mứt “tuyết liên” tuyệt vời ấy đem dọn mời hai vị chiêm tinh gia giỏi nhất Tây Tạng - đã tham cứu lá số của Rampa trước đó nhiều ngày - và lên tiếng tiên tri (đại ý): - Cậu bé sẽ dâng hiến tuổi thơ của mình trong một tu viện để trở thành tu sĩ và cũng là một y sĩ nắm giữ bí quyết của nền y học Tây Tạng. Khi trưởng thành, cậu phải sống tha hương ở xứ người và sẽ “mất tất cả” để rồi sẽ “có lại tất cả” từ con số không… Chiêm tinh gia dứt lời, bầu khí huyền bí sâu lắng bao trùm quanh lễ sinh nhật và không lâu sau đó Rampa được gởi vào tu viện Chakpori theo đúng tiên tri. Và cuộc đời ngài quả nhiên diễn ra như đường vận hành của “ngôi sao định mệnh” được báo trước. Ngài sang Trung Hoa, trôi dạt đến Anh quốc và một số nước khác ở châu Âu. Đến Mỹ (1934) giới thiệu và bắt tay thực hiện việc chữa trị theo bí quyết Tây Tạng ở bệnh viện y khoa John Hopkins và một số trung tâm y học quốc tế khác “đánh đổ quan niệm và thành kiến của các nhà khoa học Hoa Kỳ (thời bấy giờ) về môn y học Á Đông”. Những nỗ lực của ngài cũng góp sức tạo uy tín, thu hút giới trí thức Âu Mỹ hướng tầm nhìn về lịch sử Tây Tạng, cũng như nền y học và triết học thâm mật của xứ này. Đặc biệt nữa, ngài góp phần mở đường để vị Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 xuất hiện trên trường quốc tế cuối thập niên 1950 sau ngày bị đặc vụ của Mao Trạch Đông truy bắt. Đạt được những điều ấy nhờ ngài đã hấp thụ nền tảng kiến thức y học và chương trình giáo lý bí truyền từ nhỏ đến lớn ở tu viện Chakpori. Trước lúc qua đời, Sư trưởng tu viện Chakpori (trụ trì hơn 100 năm) gọi ngài đến ân cần an ủi, dặn dò và trao sứ mệnh (…) rồi thị tịch. Dầu đã mất, nhục thân của Sư trưởng vẫn ngồi an nhiên theo thế liên hoa Sau lễ cầu siêu cùng các nghi thức vãng sanh, nhục thân Sư trưởng được đưa lên bàn đá để bắt đầu các giai đoạn ướp xác (do ngài Rampa thuật lại):

1. Tẩy uế lau rửa bên ngoài nhục thân bằng thứ nước thơm nấu từ nhiều dược thảo chỉ mọc ở bình nguyên Tây Tạng, mổ lấy tất cả nội tạng “đem cất vào trong những cái vại sành đóng chặt”, rồi lau khô phía bên trong cơ thể bằng chất thuốc đặc chế “thứ thuốc này sẽ đông đặc lại và nhờ đó thân hình người chết sẽ giữ được vẻ ngồi tự nhiên như khi còn sống”.

2. Đợi thuốc khô cứng lại, mới nhồi một số tơ lụa có tẩm sẵn dược liệu và hương liệu vào bên trong xác ướp. Công đoạn này cần đến ít nhất 10 lạt-ma thông hiểu y lý và nắm vững bí quyết ướp xác thực hiện một cách kiên nhẫn từng tý một trong suốt nhiều ngày đêm (không ước định trước là bao lâu, chỉ lấy việc hoàn tất theo yêu cầu làm kỳ hạn cuối cùng). Lưu ý: tu viện Chakpori là nơi đào tạo các danh gia y học Tây Tạng. Họ đắp từng lớp tơ lụa mỏng có ướp thuốc cho đến khi chúng dày lên tới độ cần thiết cho kỹ thuật ướp xác. Trong quá trình đó họ phải để mắt theo dõi, canh chừng để “luôn luôn đổ thêm những chất thuốc khác nhau lên da thịt, đợi cho khô, rồi dán lên đó những lớp lụa thật mỏng”.
 
3. Khi nhục thân bảo đảm ướp đầy các lớp tơ lụa đủ liều lượng, xác chuyển xuống căn phòng xây lún sâu vào vách đá, đặt trên sàn nhà có rải lớp thuốc nghiền thành bột rất dày. Ở đó một lò nungđặc chế “với những lỗ thông hơi chằng chịt để giữ nhiệt độ luân chuyển đều đặn quanh bức tường” thiết kế sẵn. Mọi người rút lui, đóng cửa lại, để xác nằm giữa phòng vàcác lạt-ma châm lửa “suốt bảy ngày ngọn lửa tí tách cháy - đến ngày thứ tám người ta mới tắt lửa” nhưng chưa mở cửa phòng vội. Phải đợi thêm vài hôm sau “khi nhiệt độ trong phòng hạ xuống, người ta mới mở ra” - bắt đầu công đoạn khác.

4. Các lạt-ma chuyên trách “cạo hết các lớp bột bám quanh xác ướp và bóc hết các lớp vải bọc bên ngoài (…) cái xác trơ trụi y như lúc còn sống, chỉ hơi đen xám đi một chút”, bấy giờ nhìn vào thấy xác ướpdường như “có thể sống dậy bất cứ lúc nào”.

5. Để giữ lâu bền và làm đẹp hơn, những kỹ thuật viên chuyên trách “đắp các lớp vàng thật mỏng lên thi thể xác ướp - họ làm việc thật thong thả, phết những lớp vàng tế nhuyễn, tinh xảo và khi hoàn tất, họ để lại một xác ướp mạ vàng coi tự nhiên như người sống” và đưa lên kiệu chuyển đến “một đường hầm bí mật mà cửa vào được ngụy trang hết sức cẩn thận”. Đi hết đường hầm ấy, đến một căn phòng rộng lớn chứa 98 xác ướp được an vị, thờ sẵn tự bao giờ…Thêm xác ướp của Sư trưởng vào chỗ ngồi dành sẵn cho ngài, con số các “lạt-ma hóa thân” lên 99 vị.

Xong lễ, Rampa theo các lạt-ma bước ra “bỗng nhiên tôi (Rampa) thấy một sức hấp dẫn lạ lùng mãnh liệt từ một xác ướp bọc vàng. Tôi có cảm giác như cái xác ướp đó mỉm cười với tôi. Đầu óc tôi bỗng vô cùng hoang mang, choáng váng như có một cái gì đó thúc đẩy tôi bước nhẹ đến bên xác ướp”. Thoáng trong sát-na, ngắn chỉ bằng hàng trăm nghìn phần của một tích-tắc, Rampa bỗng đột ngột rơi vào tâm thái khác thường, toàn thân run lên không kìm hãm được. Ngài viết: “tôi bị xác ướp đó thu hút, dường như nó biết rõ tất cả về tôi. Bỗng dưng một bàn tay để nhẹ lên vai làm tôi giật mình, suýt té xỉu. Tôi quay người lại và nhận ra sư phụ mình. Người nói thật khẽ: - “Phải đó, con đã nhận ra cái xác của con hồi kiếp trước. Chúng ta biết con sẽ tự nhận ra mình


Cái chết của Ban-thiền Lạt-ma và án tử hình ở Lhasa























Mao Trạch Đông (giữa) và Ban-thiền Lạt-ma (trái) cùng Đạt-lai Lạt-ma tại Bắc Kinh, 1954

Các án tử hình và chung thân được tuyên vào cuối phiên tòa công khai xử “12 phần tử phạm tội” trong cuộc biểu tình đòi Tây Tạng độc lập trên đường phố Lhasa (năm 1989) liên quan xa gần đến cái chết đột ngột của Ban-thiền Lạt-ma từng bị Mao Trạch Đông bắt giam tại Bắc Kinh khi cách mạng văn hóa bùng nổ năm 1966…

Sách Mao Mao viết: “Năm 1966, lịch sử nước Trung Hoa mới đã mở sang một trang bất hạnh (…) Cha tôi, gia đình tôi, toàn thể nhân dân Trung Quốc đều trải qua một thời kỳ điêu đứng, mê loạn, chính trị đảo điên, tình người điên đảo” (Cha tôi Đặng Tiểu Bình – sđd. tr. 853). Thời kỳ ấy, Mao Trạch Đông “phát động căm hờn” để các tiểu quỷ hồng vệ binh tấn công 2700 đền chùa Tây Tạng, xâm hại ngôi danh lam thiêng liêng Trát-thập Luân-bố.

Trát-thập Luân-bố, tiếng Tây Tạng là: Bkra-sis Ihun-po. Bkra-sis nghĩa là: hạnh phúc, cát tường. Ihun-po: ngọn núi. Cho nên “tên chùa này có thể dịch là: Hạnh phúc sơn, hoặc Cát tường sơn” (tọa lạc ở thành Nhật-cấp-tắc Shigatsé) với 3.000 gian điện đường, 4 học viện mật thừa và hiển thừa, 14 kim đỉnh, tượng Phật Di Lặc bằng đồng mạ vàng cao 26,8 mét, nhiều bích họa và ấn chương bằng vàng ngọc (như ấn Đại tự đồ do Quốc sư đời Nguyên là Bát-tư-ba chế tác có khắc tiếng Mông Cổ), cùng các di vật có giá trị văn hóa khác.


Sáng lập bởi Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ nhất (được xem là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm), đến đời Đạt-lai Lạt-ma thứ 5 “trở thành hệ thống của Ban-thiền, tăng chúng 3.800 vị, khi hưng thịnh có đến 7.000 vị” (Từ điển Phật học Huệ Quang - Hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên, NXB Tổng hợp TP. HCM – 2005, tập VII, tr. 5752). Chua xót nhất của danh lam này là đã bị hủy hoại ngôi tháp dát bạc và khảm ngọc thạch dùng tôn thờ di thể (xác ướp) của các Ban-thiền.

Về Ban-thiền Lạt-ma, Đoàn Trung Còn viết: Ở Tây Tạng “có hai vị Phật sống (Hoạt-Phật) chức vị lớn nhứt: Ngài Đạt-lai Lạt-ma (ngự ở kinh thành Lhasa) và ngài Ban-thiền Lạt-ma (ngự ở Trát-thập Luân-bố - Shigatsé). Ngài Đạt-lại Lạt-ma thì cầm quyền quốc chánh và tôn giáo. Còn ngài Ban-thiền Lạt-ma thì được coi như bậc thầy cả về tôn giáo. Có khi ngài Đạt-lai Lạt-ma vắng mặt hoặc tịch hóa thì ngài Ban-thiền Lạt-ma thay quyền.
Các nhà đạo đức có dịp viếng qua xứ Tây Tạng và chầu đức Phật sống Ban-thiền Lạt-ma đều công nhận rằng ngài có mật hạnh, cốt cách hiền hòa và có dạ từ bi, hẳn là bực Phật Thánh giáng trần”. (Phật học từ điển, Quyển I, Phật học toàn thư xuất bản, Sài Gòn 1966). Tìm hiểu về Ban-thiền Lạt-ma, quý độc giả vui lòng tham khảo thêm: Từ điển Phật học Hán – Việt, Hòa thượng Kim Cương Tử chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, tr.85. Và: Từ điển Phật học Huệ Quang, sđd. Tập I, tr.260.
Linh tháp chùa Trát-thập Luân-bố thờ 5 di thể Ban-thiền Lạt-ma đời thứ 5 đến đời thứ 9. Ban-thiền Lạt-ma đời thứ 10 đã viết bức thư dài 70.000 chữ phản đối Mao Trạch Đông phá hoại chùa Trát-thập Luân-bố và triệt bỏ linh tháp. Mao tức giận, kết tội và bắt giam Ban-thiền. Mã Linh - Lý Minh viết: “Do bất mãn với cách làm kích động trong đại cách mạng văn hóa, Ban-thiền đã gởi lên trung ương một bản thất vạn ngôn thư (bức thư bảy vạn chữ) nên bị (Mao Trạch Đông) gán tội tống giam vào tù” - Hồng Phượng dịch, sđd ở Kỳ 77, tr. 214. Đạt-lai Lạt-ma và Ban-thiền Lạt-ma đều bảo vệ Phật pháp Tây Tạng, song hai ngài có hai cách xử thế khác nhau. Ngài Đạt-lai Lạt-ma (thứ 14) phản đối quyết liệt đối sách của Mao Trạch Đông ghép Tây Tạng vào Trung Quốc.
Ngài Ban-thiền Lạt-ma (đời thứ 10) liên lạc và lên tiếng ủng hộ Đảng CS Trung Quốc từ lúc Mao Trạch Đông chưa về đến Bắc Kinh. Sau ngày Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa, Ban-thiền công khai tán thành chủ trương “giải phóng hòa bình Tây Tạng” của Mao. Dầu vậy, Mao vẫn không nể nang gì, trả đũa đàn áp thẳng tay những chỉ trích thẳng thắn của Ban-thiền Lạt-ma (về các sai lầm của Mao). Quyết liệt hơn, Mao kết tội Ban-thiền Lạt-ma theo con đường hữu khuynh để giam vào ngục: “mãi cuối thập niên 1970, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu dẹp loạn uốn nắn, Ban-thiền lại được trả tự do, khôi phục chức vụ (Phó Chủ tịch Quốc hội - Phó Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc - GH)”

Ra tù, Ban-thiền Lạt-ma về thăm chùa xưa Trát-thập Luân bố sau 18 năm xa cách. Các tín đồ quyết tử tìm đến “đem di hài của số cao tăng mà họ đã mạo hiểm cả tính mạng giữ lại được trong đại cách mạng văn hóa” giao ngài.

Ban-thiền thỉnh nguyện Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải xây lại các Phật điện và ngôi linh pháp để hợp tán di hài của 5 vị Ban-thiền và được chấp thuận. Bắc Kinh “đền bù” phần nào vàđã cấp “108,35 ki-lô vàng, 1.000 ki-lô bạc” để xây linh tháp.
Sau 3 năm thi công, tháp hoàn thành ngày 10.12.1988 với “diện tích 1.933 mét vuông, cao 33,17 thước tây, tầng tháp cao 11,52 thước tây”. Lễ khai quang cử hành 20.1.1989 do ngài Ban-thiền chủ trì và Bí thư đảng ủy khu tự trị Tây Tạng Hồ Cẩm Đào đọc diễn văn chúc mừng.
Một tuần sau, ngài Ban-thiền chưa kịp về lại Bắc Kinh “đột nhiên bị nhồi máu cơ tim 28.1.1989” (sđd 218). Từ Bắc Kinh, Ôn Gia Bảo (bấy giờ là Bí thư dự khuyết Ban bí thư trung ương Đảng) lập tức dẫn các chuyên gia bệnh tim đáp chuyên cơ bay đến Tây Tạng, nhưng không kịp nữa. Ban-thiền qua đời ngay hôm đó (28.1).
Do cái chết đột ngột của Ban-thiền Lạt-ma, Đại pháp hội truyền chiếu (sinh hoạt truyền thống đã có ngót 500 năm ở Tây Tạng) sắp tổ chức phải hoãn lại. Thêm nữa, Bắc Kinh lo ngại nếu tổ chức Đại pháp hội vào dịp tròn 30 năm ngài Đạt-lai Lạt-ma phát động vũ trang giành độc lập Tây Tạng (1959-1989) sẽ có khả năng xảy ra sự biến không hay.

Quyết định hủy bỏ “đại pháp hội truyền chiếu” gây chấn động lớn trong dân chúng và Phật giáo đồ Tây Tạng. Lhasa liên tục diễn ra 4 vụ diễu hành đòi độc lập (từ 13.2 đến đầu 3.1989), lên đỉnh điểm ngày 5.3 với cuộc xuống đường của hơn 2.000 Phật tử: “Một số người bắt đầu xông vào đập phá cơ quan quận ủy và cơ quan chính quyền quận Thành Quan, ném đá vào đồn công an, trên phố đèn đuốc sáng rực. Trong cuộc gây rối ngày hôm đó, tổng cộng có 11 người chết, hơn 100 người bị thương”.

Hai ngày sau, bạo động vẫn tiếp diễn, Bắc Kinh ra lệnh cấm không ai được phép ra đường, đi lại. Thành phố Lhasa vắng ngắt, chỉ còn quân đội Trung Quốc và xe tăng án ngữ. Thống kê cho biết trong đợt đấu tranh đó có “gần 100 cửa hàng tư nhân và cửa hàng quốc doanh, tập thể bị đập phá hoàn toàn - 9 cơ quan chính quyền, 1 trường tiểu học, 2 ủy ban khu phố và một phân cục công an, 1 trụ sở phục vụ bảo an, 3 đồn công an bị đập phá, hơn 20 chiếc ô tô bị đốt, 1.004 sạp bán hàng tư nhân trên phố Bát Khoách không thể kinh doanh được từ ngày 4 đến ngày 7.3.1989” (Mã Linh – Lý Minh, sđd. tr. 222 – 223).
Nhiều người bị bắt và Lhasa mở phiên tòa đặc biệt xét xử “12 phần tử phạm tội trong sự kiện gây rối ở Lhasa ngày 5.3.1989” với án tử hình và tù chung thân. Đưa tin trên, tờ Tây Tạng nhật báo gọi những người biểu tình đòi độc lập Tây Tạng là “yêu ma” và cảnh báo “luật pháp của chúng ta (Trung Quốc) không phải là mũi “kim thêu” mà là “gậy giáng yêu” (chữ dùng của bài xã luận). Vượt lên những đe dọa, Lhasa vẫn tiếp tục chứng tỏ bản lĩnh “hoa sen trong biển lửa” vào thập niên đầu của thế kỷ 21…Giao Hưởng (Motthegioi)

Saturday, January 17, 2015

Chú Trương Thìn hát “Kiều ca” tặng chị Mỹ Thạnh






Kiều ca

Chú Trương Thìn vốn là một bác sĩ, nguyên Viện trưởng viện Y Dược học Dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh, dạy Đông y hiện đại và tự nhận là người tìm thuốc trong nghệ thuật. Đam mê âm nhạc, thi ca, hội họa, Chú Trương Thìn vẽ tranh, làm thơ và viết nhạc dễ như lấy đồ trong túi. Chú mê Kiều ( Đoạn trường tân thanh), soạn nhạc dựa theo ý thơ một số đoạn trích Kiều – và cả viết thêm lời, mở rộng ý hoặc lời của riêng Chú.

Chú Trương Thìn cũng phổ thơ Phạm Thiên Thư – thi sĩ đồng niên với Chú – người đã viết tiếp Truyện Kiều của Nguyễn Du – Đoạn trường vô thanh với giọng lục bát tài hoa. Và Chú Trương Thìn đã trích đoạn, phổ nhạc thành 9 ca khúc mang âm điệu thống nhất cùng 3 phần Kiều ca của Nguyễn Du: Một xe trong cõi hồng trần, Mai sau dù có bao giờ và Bên bờ khát vọng.


Beautiful pre-occupation footage of Tibet discovered




The films preserved by the Tibet Film Archive chronicle the region's rich culture, troubled present and unsure future It’s hard to get to Tibet. But as tough as that is, a more difficult feat is to get something out. For the 98% of Tibetans still living in Tibet, the best way to preserve their culture from the growing influence of Han Chinese migrants is to send it abroad, preferably in secret. Say, in the bottom of a steamer trunk in the dead of night. That is where the Tenzin Phuntsog found 16 films, some of which hadn’t been seen in nearly 50 years. Using his own money and learning from friends along the way, Phuntsog restored and digitized the films, creating the Tibet Film Archive. Now, Phuntsog tells TIME, comes the tricky part: Getting the films back into Tibet to show the people who need to see them the most. German Expedition to Tibet: Geheimnis (1939)



In 1939, Nazi Germany sent an unprecedented expedition to Tibet complete with botanists, anthropologists, photographers and a film camera operator. Despite receiving part of their funding from the infamous Nazi leader Heinrich Himmler—and being forced into becoming S.S. officers themselves—the scientists still collected artifacts, made maps and documented the land for European eyes. Lowell Thomas: Tibet Lecture (1944)



The traveler who chronicled the story of Lawrence of Arabia also made trips to Tibet. The film shows a young candidate for the position of Panchen Lama, a spiritual leader like the Dalai Lama—or possibly the 10th Panchen Lama as a youth—while documenting the monastic life central to Tibetan culture. The Religious Investiture of His Holiness the Dalai Lama (1970)



Given the newsreel treatment in the 70s, the original footage in this film was shot before the Dalai Lama fled Tibet into exile in India in 1959. Depicting the Geshe exam, a scholarly test, taken by the current Dalai Lama, the film serves as proof that the Dalai Lama attained his rank legitimately—and more importantly, in Tibet.


Friday, January 16, 2015

Nhớ mùa thu Hà Nội - Trịnh Vĩnh Trinh


muathuhanoi.jpg

 

Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ,
Nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu.

Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội,
Mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió,
Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ,
Cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua.

Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi.
Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời.

Hà Nội mùa thu đi giữa mọi người,
Lòng như thầm hỏi, tôi đang nhớ ai,
Sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi,
Sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi.

Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội, nhớ đến một người ...
Để nhớ mọi người.

Thursday, January 15, 2015

Kiếp nào có yêu nhau thơ Minh Đức Hoài Trinh nhạc Phạm Duy - Lệ Thu

Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi.


Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ.


Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở.


Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận ngàn sau
Tình xanh không lo sợ.


Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi?


Wednesday, January 14, 2015

Trịnh Công Sơn - Vết Thương Tỉnh Thức

20140108-023236.jpg

Những ngày tháng này tình bạn và tình yêu mang đến một niềm vui sống lạ kỳ. “Hãy yêu như đang sống và hãy sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại và sống cho tình yêu có mặt”.
Có những cánh cửa mở vào hư vô và cũng có những cánh cửa mở ra những cánh đời nhộn nhịp.
Ta không khước từ hư vô và cũng không xa lìa cảnh nhộn nhịp của đời. Ta đã may mắn đi qua những tuyến đường đưa đến hạnh ngộ. Hạnh ngộ trong tình bạn, hạnh ngộ trong tình yêu.
Nếu đã có một ngày sinh nhật dĩ nhiên sẽ có nhiều ngày sinh nhật nữa . Mà hình như trong cảnh ngộ cuộc đời riêng – chung của chúng ta ngày nào mà không là ngày sinh nhật, bởi vì cái màu sắc của lễ lạc đã tự bao giờ khoác lên trên mỗi ngày chúng ta đang sống.
Xin cảm ơn cuộc đời và cảm ơn tất cả mỗi ngày chúng ta đã có mặt mỗi ngày bên nhau. Ly rượu nồng nàn của đời biết bao giờ uống hết được.
Tình yêu thương mang đến khổ đau nhưng đồng thời tình yêu cũng mang đến hạnh phúc. Có một lá cờ bay trên hạnh phúc và có một đoá quỳnh héo úa ngủ trong khổ đau. Cố gắng tránh đừng than thở. Thử thở dài một mình và quên lãng.Ta không thể níu kéo một cái gì đã mất. Tình yêu khi đã muốn ra đi thì không một tiếng kèn nào đủ màu nhiệm để lôi về lại được. Tình yêu là tình yêu. Trong nó đã sẵn có mầm sống và sự huỷ diệt.

20140108-023139.jpg

Tình yêu tự đến và tự đi, không cần ai dìu dắt. Nó hoàn toàn tự do. Muốn giam cầm thì nó sẽ bay đi. Muốn thả nó bay đi có khi nó ở lại.
Vì có tình yêu nên có lễ hội. Người ta bắt đầu bằng những cuộc viếng thăm, lui tới, áo mũ xênh xoang, bánh trái lồng đèn heo ngỗng… Những cuộc rước dâu pháo nổ đì đùng, trống kèn inh ỏi. Lễ hội mở ra trên đường,trong làng, trong xóm: lễ hội mở ra cả trong lòng người

20140108-023021.jpg

Thường vào mùa thu là mùa lễ hội tình yêu. Có những lễ hội kéo dài suốt cả một đời người. Có những lễ hội có một đời sống đôi khi quá ngắn ngủi.
Đến một lứa tuổi nào đó, chia vui và chia buồn đều có một nỗi mệt nhọc như nhau.
Có những người yêu đã ra đi bỗng một ngày nào đó trở lại. Vì sao? Không vì sao cả. Vì một chọn lựa tưởng rắng đã đúng cuối cùng sai. Và đã trở lại với một người mình đã phụ bạc để muốn hàn gắn lại một vết thương. Một vết thương nhiều khi đã lành lặn lâu rồi bất chợt vỡ oà như một cơn tỉnh thức. Tỉnh thức trên vết thương. Trên một nỗi đau tưởng đã thuộc về quá khứ. Nhưng không, không có gì thuộc về quá khứ cả.Thời gian trôi đi và vết thương vẫn còn đó. Nó vẫn chờ được thức dậy một lúc nào đó để sống lại như chính bản thân nó là một vết thương.
Nhưng vết thương khi đã được đánh thức thì nó không còn là vết thương cũ vì giờ đây nó là một vết thương tỉnh thức. Một vết thương tỉnh thức là một vết thương biết rõ nó là một vết thương. Nó thức dậy và nó nhận ra rằng nó đã được khai sinh trên tâm hồn một con người và đã có một thời gian dài làm đau đớn con người đó. Vết thương tỉnh thức là một con mắt sáng ngời. Nó nhìn ngược về quá khứ và ngó thẳng đến tương lai. Nó mách bảo cho chủ nhân của nó rằng không có một vết thương nào vô tư mà sinh thành cả. Nó là một nỗi đớn đau như trời đất trở dạ làm thành một cơn giông bão.
May thay trong cuộc đời này có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có nhưng không nhiều.
Tôi thấy tình bạn quí hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa.
Cuối cùng không có gì khác hơn là sống và chết. Sống làm thế nào cho tròn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi hư không. Phải đến tận cùng hai cõi sống chết để làm tan biến đi những giấc mơ mộng đời không thực.

Trịnh Công Sơn

" Nước Pháp trong tôi "



Post by UAVF - French Alumni Vietnam.

SBD: UAVF77
Bài dự thi " Nước Pháp trong tôi "
Tên (nhóm) người dự thi: Trương Khánh Hằng, Trương Khánh Mỹ
Tên video: "Cung điện Pháp" hay là Đại Nội quê hương tôi.
Thời gian, địa điểm video quay: Bảo tàng Louvre, Paris. 12/2014
Lời chia sẻ:
Tôi đến thăm bảo tàng Louvre trong một ngày mùa đông lạnh giá. Cái lạnh khô khốc khác biệt với mùa lạnh xứ Huế mưa dầm dề " thối đất thối đai". Đứng trước sự to lớn, nguy nga của nơi từng là cung điện hoàng gia này, tôi bất chợt nhớ đến Đại Nội, một trong những biểu tượng của người dân xứ Huế.
Paris và Huế-quê hương tôi, không biết vô tình hay hữu ý giống nhau đến lạ kì. Paris với dòng sông Seine chảy trong lòng thành phố, nơi đã gắn liền với ước mơ nhỏ bé của tôi khi được xem phim "Ratatouille". Tôi ước một lần mình cũng được chạy dọc theo bờ sông Seine như chú chuột Remy trong bộ phim đó. Một mong muốn thật ngây thơ nhưng cũng đáng yêu biết bao nhỉ?
Thành phố Huế nhỏ bé của tôi cũng có dòng sông Hương chạy nhảy vui đùa trong lòng thành phố.
Paris hoa lệ, đẹp lộng lẫy- Huế nhỏ bé, đẹp một cách yên bình, sâu lắng.
Hôm nay cô gái đến từ miền đất bé nhỏ này cảm thấy có chút gì đó choáng ngợp trước vẻ rộng lớn mênh mông của "cung điện" nơi cô đang tới, trước một Paris kiêu kì, xa hoa. Cô mong một ngày thành phố quê hương cô cũng trở nên to và đẹp như thế.
Cô là cô gái nhỏ mang trong mình một ước mơ lớn lao!

Tuesday, January 13, 2015

Tất cả đều VÔ THƯỜNG.


2015/01/img_6995.jpg
 
Sống ngày nào, vui ngày nấy ! Đó là giải thoát !
1-Thời gian : Vô Thường :
Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh, nhưng chỉ có hiểu đời thì mới :
-Qua một ngày, vui một ngày.
-Sống thanh thản, sống thoải mái.
-Qua một ngày, mất một ngày.
-Vui một ngày, lãi một ngày.
2-Hạnh phúc : Vô Thường :
Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.
3-Tiền : Vô Thường :
Tiền không phải là tất cả, nhưng không phải không là gì. Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng mang đến, khi chết chẳng mang đi. Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khỏe, và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua ? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ ! Người khôn biết kiếm tiền, biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó. (Khó lắm !?!?)
4- Đời sống : Vô Thường :
“Quãng đời còn lại càng ngắn thì càng phải làm cho nó phong phú”.
Người già phải thay đổi quan niệm cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh”, hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao phẩm chất cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của tuổi già.

2015/01/img_6999-0.jpg


5-Thê´ Gian : Vô Thường :
-Tiền bạc là của con ( không chắc lắm !) – Tài sản có thể bị mất vì các nguyên nhân: 1-Thiên tai, 2- Hỏa hoạn, 3- Pháp lệnh của Vua, hay chính quyền tịch thu, quốc hữu hóa … 4- Trộm cướp,5- Con cái.
Địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khỏe là của mình.
-Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn.
-Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một chút, hỏi vài câu là thấy đủ rồi.
-Con tiêu tiền cha mẹ, thoải mái. Cha mẹ tiêu tiền con, chẳng dễ gì.
-Nhà cha mẹ là nhà con ; Nhà con không phải là nhà cha mẹ.
Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp.
-Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.
-Ốm đau trông cậy ai ? Trông cậy con ư ? Nếu ốm dai dẳng chẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu (cửu bệnh sàng tiền vô hiếu tử). Trông vào bạn đời ư ? Người ta lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi đâu.
Trông cậy vào đồng tiền ư ? – Chỉ còn cách ấy.
-Cái được, người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm.
Chân lý của Đạo, thực ra sự sung sướng, và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quý trọng, và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.
Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống, và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình (tỷ thượng bất túc tỷ hạ hữu dư), biết đủ thì lúc nào cũng vui (tri túc thường lạc).
Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt, tự tìm niềm vui.
Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui.
Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như có cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được.. Huống hồ nghĩ ra, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra: ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.
Quá nửa đời người dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc nào muốn thì làm, ai nói sao mặc kệ, vì mình đâu phải sống vì ý thích, hay không thích của người khác, nên sống thật với mình.
Sống ở trên đời không thể nào vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm cho khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.
Tuổi già, tâm không già, thế là già mà không già. Tuổi không già mà tâm già, thế là không già mà già. Nhưng xử lý một vấn đề thì nên nghe người già.
Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức. Ăn uống quá thanh đạm thì không đủ chất bổ ; quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ; quá ồn áo thì khó chịu….
Mọi thứ đều nên “vừa phải”.
Người ngu gây bệnh: hút thuốc, say rượu, tham ăn tham uống….
Người dốt chờ bệnh: ốm đau mới đi khám chữa bệnh.
Người khôn phòng bệnh: chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống..
Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới khám chữa bệnh… Tất cả đều là muộn.
Phẩm chất cuộc sống của người già cao hay thấp, chính yếu tùy thuộc vào cách tư duy, tư duy hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng tư duy hướng lợi để tổ chức cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và sự tự tin, cuộc sống có hương vị; tư duy hướng hại là tư duy tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết.
Chơi là một trong những nhu cầu căn bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi ưa thích nhất, trong khi chơi hãy thể nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh.
“Hoàn toàn khỏe mạnh”, đó là nói thân thể khỏe mạnh, tâm lý khỏe mạnh, và đạo đức khỏe mạnh. Tâm lý khỏe mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao thiệp; đạo đức khỏe mạnh là có tình thương yêu, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu.
Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong hoạt động xã hội, thể hiện giá trị của mình, đó là cuộc sống lành mạnh.
Cuộc sống tuổi già nên đa tầng đa nguyên, nhiều màu sắc, có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình bạn làm đẹp thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc.
Con người ta chịu đựng, hóa giải, và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất. Quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống thế nào.
Tại sao khi về già người ta hay hoài cựu (hay nhớ chuyện xa xưa)? Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân cuối, tâm linh cần trong lành, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tìm lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thuở nhỏ, cùng bạn học nhớ lại bao chuyện vui thời trai trẻ, có như vậy mới tìm lại được cảm giác của một thời đầy sức sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn của tuổi già.
Nếu bạn đã cố hết sức mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó ! Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả trái ngắt vội không bao giờ ngọt.
Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm, và cuối cùng đặt cho mình một dấu chấm hết thật tròn.

Việt Anh