– Hoàng Giáo Tây Tạng (Vajrayana hay Tantrayana): Tây Tạng, Mông Cổ.
Căn
cứ vào những tiểu sử của đức Phật, hoàng hậu Mahamaya nằm chiêm bao
thấy một con voi trắng sáu ngà, dùng ngà có hoa sen húc vào hông bà. Sau
đó hoàng hậu mang thai. Hoàng hậu lâm bồn trong vườn Lumbini, Nepal,
dưới tàn cây Shala (cây vô ưu). Vừa chào đời hài nhi biết đi và biết
nói. Người nhảy bảy bước. Mỗi bước nhảy có một hoa sen nở ra. Đó là thái
tử Siddharta Gautama. Năm 29 tuổi thái tử từ giã vợ con và chức quyền
sắp có trên một vương quốc nằm dọc theo dãy Hy Mã Lạp Sơn để đi tìm chân
lý. Sau nhiều năm theo phái khắc khổ, Người vẫn không tìm ra chân lý,
trái lại thân xác gầy gò và suýt chết. Một hôm ngồi dưới gốc cây bồ đề,
Người được một phụ nữ dâng một chén cơm và một ly sữa để bồi dưỡng thân
thể. Sau khi uống xong ly sữa, Người đắc đạo dưới gốc cây bồ đề. Người
được gọi là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) tức nhà hiền triết tộc Sakya
hay Buddha (đấng Giác Ngộ) tức Phật. Đức Phật thu nhận đệ tử, đi khắp
nơi để truyền giảng đạo và viên tịch năm 80 tuổi.
Tôi
tạm tóm lược tiểu sử của Đức Phật từ ngày đản sinh đến ngày viên tịch
để đề cập đến những loại thảo mộc gắn liền với Đức Phật như: cây shala
hay cây vô ưu, hoa sen, cây bồ đề, lúa gạo và nấm truffle căn cứ vào giả
thuyết về bữa ăn cuối cùng của Đức Phật. Bài viết hoàn toàn không có
màu sắc tôn giáo mà chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh thực vật học của cây cỏ
gắn liền với Đức Phật. Phần cuối của bài có một số giả thuyết tóm lược
từ các cuộc nghiên cứu về bữa ăn cuối cùng của Đức Phật trên khía cạnh
khoa học. Xin người đọc bình tâm trước những lời giải thích của các nhà
khoa học. Nhờ sự mạnh dạn tìm hiểu nguồn gốc của mọi sự vật một cách
khách quan và khoa học, chúng ta mới được hưởng những tiện nghi hiện có
thay vì nhìn các hiện tượng trong vũ trụ bằng sự huyền hoặc, hoài nghi
và sợ sệt.
Cây Vô Ưu
Đức Phật chào đời dưới tàn cây vô ưu. Có hai loại cây vô ưu:
– cây shal hay shala
– cây ashoka
Về
cây shala lại có một loại thảo mộc được người Indonesia gọi là Sala và
người Ấn Độ gọi là Naga linga và được gọi là thánh mộc. Tôi nói qua về 3
loại cây nầy vì cả ba đều được xem là thiêng mộc trong Ấn Giáo
(Hinduism) lẫn Phật Giáo.
Cây Vô Ưu Shala, cây Vô Ưu Ashoka và cây Thánh Mộc
1. Cây Vô Ưu Shala: Tên khoa học của cây vô ưu Shala là Shorea robusta thuộc gia đìnhDipterocarpaceae như
cây sao, cây dầu, nghĩa là loại cây có trái có cánh. Cây cao từ 30-40m;
lá rộng; hoa màu trắng rất thơm. Hoa nở vào tháng 4 dương lịch hàng
năm. Cây vô ưu shala có nhiều ở Ấn Độ, các xứ vùng Hy Mã Lạp Sơn,
Bangladesh. Người Ấn Độ gọi là Sal, Shala ; tiếng Sanskrit (Phạn): ashvakarma.
2. Cây Vô Ưu Ashoka: Theo tiếng Sanskrit ashoka có nghĩa là vô ưu. Do đó người Anh gọi là sorrowless tree hay ashoka tree. Người Ấn Độ gọi là Vanjulam. Cây vô ưu ashoka tức cây vàng anh cao
từ 20-30m. Lá rộng, đầu lá nhọn. Hoa to, cánh bầu tròn màu đỏ-vàng,
nhụy dày đặc. Hoa thơm và đẹp. Tên khoa học của hoa vô ưu ashoka là Ashoka saraca thuộc
gia đình Fabaceae. Cây ashoka liên hệ đến Thần Rama và vợ là nữ Thần
Sita của Ấn Giáo và Đức Phật. Đó là nguồn thuốc của phụ nữ, biểu tượng
cho sự sinh sản. Đến ngày lễ Ashok Shasthi phụ nữ Ấn Độ ăn hoa ashoka để
được vô ưu. Nhiều phụ nữ cầu tự bằng cách nhảy múa dưới cây ashoka.
Người ta cũng tin rằng Đức Phật ra đời dưới cây ashoka vì có sự lẫn lộn
giữa cây shala vô ưu với cây ashoka vô ưu. Vỏ cây vô ưu ashoka sắc uống
trị rối loạn tử cung, huyết tiện, tử cung xuất huyết, u bướu, da mất sắc
tố v.v…
3. Thánh Mộc Naga Linga: Loại thảo mộc nầy được tìm thấy nhiều ở Nam Mỹ Châu, Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Sri Lanka. Tên khoa học là Couroupita guianensis thuộc gia đình Lecythidaceae. Người Tamil gọi là Naga Linga (Naga:
con rắn được tín đồ Ấn Giáo quí trọng; Linga: dấu hiệu của Thần Shiva
trong Ấn Giáo. Linga-Yoni là bộ phận sinh dục của Nam và Nữ tượng trưng
cho sự sinh hóa trong vũ trụ). Người Ấn Độ gọi là Shiva Linga. Người Anh gọi là cannon ball tree vì trái tròn, to bằng cái tô giống như trái đạn đại bác hay monkey pot (nồi khỉ vì khỉ dùng tay bóc ruột trái chín để ăn). Người Indonesia gọi là Sala tựa như cây Shala Shorea robusta.
Cây Naga Linga cao từ 20-30m; lá to và có hương thơm. Hoa màu đỏ-vàng
rất đẹp kết thành một chuỗi dài 3m. Trái nhiều, tròn và to như cái tô,
vỏ cứng, cơm nhiều khi chín có mùi thơm nhưng có người lại cho là mùi
không chịu nổi như trường hợp trái sầu riêng. Ngoài loài khỉ, loài người
cũng ăn trái cây nầy được. Vỏ và lá thánh mộc Naga Linga dùng như thuốc
trụ sinh, kháng nấm, trị cảm, trị đau bụng. Lá giã nát vắt nước dùng
trị bệnh ngoài da. Lá cũng được dùng để trị nhức răng. Ở Nam Mỹ người ta
dùng vỏ cây Naga Linga sắc nước uống trị sốt rét. Cây Naga Linga thường
được trồng quanh đền Thần Shiva hay chùa Phật Giáo ở Ấn Độ, Sri Lanka.
Vì trái to và nặng khi rụng trúng đầu người có thể gây nguy hiểm đến
tánh mạng nên người ta không trồng cây Naga Linga (cây nồi khỉ hay cây
đạn thần công) ngoài đường như trường hợp cây dừa vậy.
Hoa Sen
Hoa sen là hoa thiêng trong Ấn Độ và Phật Giáo Đại Thừa, Tiểu Thừa và Hoàng Giáo Tây Tạng. Tên khoa học của hoa sen là Nelumbo nucifera thuộc gia đình Nelumbonaceae . Người Ấn Độ gọi hoa sen làKamala. Tiếng Sanskrit cũng gọi là Kamala hay Padma. Người Anh gọi là Sacred lotus (Sen thiêng), Indian sacred lotus.
Hoa sen đỏ liên hệ đến Thần Vishnu và sen trắng liên hệ nữ Thần Sarasvati.
Lá sen, ngó sen,
hột sen, nhụy hột sen, củ sen đều có công dụng. Hoa sen vừa có tính biểu
tượng, vừa đẹp vừa có hương thơm. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh
khiết của một loài hoa mộc dưới nước nhưng:
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ngoài đặc tính là thức ăn ngon và bổ dưỡng toàn thân, hoa sen còn được xem là một nguồn thuốc. Hoa sen có alkaloids nuciferine C19H21NO2 và apomorphine C17H17NO2
có tác dụng trị chứng bất lực sinh lý. Ngó sen, củ sen và hột sen được
dùng để cầm máu, trị loét dạ dày, xuất huyết hậu sản, kinh nguyệt quá đà
(ngó sen), nhuận trường, trị tiêu chảy, kiết lỵ, bán thân bất toại, mất
ngủ, di mộng tinh, bất lực sinh lý, hạ huyết áp, hạ cholesterol, hưng
phấn các sớ thịt tử cung (hột, củ sen) v.v…
Phật
mẫu Mahamaya thấy voi trắng dùng ngà có hoa sen trắng chạm vào hông. Voi
trắng là voi thiêng biểu tượng cho sự sinh sản và sự khôn ngoan. Sự
xuất hiện của voi trắng như là sự báo hiệu của sự xuất hiện của đấng
siêu phàm. Hoa sen trắng (bạch liên) là hiện thân của nữ Thần Satasvati.
Bảy đóa hoa sen (bảy bước) là Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng, Hạ, Trung
Tâm. Có phải chăng số 7 tượng trưng cho 7 ngôi sao trong chòm Đại Hùng
Tinh (Ursa Major) của Sao Bắc Đẩu trên vòm Trời?
Cây Bồ Đề
Đức Phật ngồi thiền
và đắc đạo dưới cây bồ đề ở Bodh Gaya, tiểu bang Bihar, Ấn Độ. Cây bồ
đề là thiêng mộc đối với Ấn Giáo và Phật Giáo. Tín đồ Ấn Giáo tin rằng
Thần Vishnu ra đời dưới cây bồ đề và Thần Krishna chết dưới gốc cây bồ
đề. Huyền thoại Ấn Độ tin rằng gốc và rễ cây bồ đề là Thần Brahma; thân
cây là Thần Vishnu và lá là Thần Shiva. Người Ấn Độ gọi cây bồ đề là Peepal (pipal). Tiếng Sanskrit (Phạn) là pipala, bodhi; Sri Lanka: Bo; Thái Lan: bodhi. Bodhi có nghĩa là sự khôn ngoan. Người Anh phải gọi cây bồ đề là Sacred bodhi (cây bồ đề thiêng), bodhi tree vì họ biết người Ấn Độ, tín đồ Ấn Giáo lẫn Phật Giáo đều tôn kính cây bồ đề.
Tên khoa học của cây bồ đề là Ficus religiosa thuộc gia đình Moraceae.
Không phải thảo mộc mang tên khoa học Ficus religiosa nào cũng được xem
là cây bồ đề thiêng. Chỉ có những cây bồ đề lấy giống từ cây bồ đề ở
Bodh Gaya, Bihar, Ấn Độ, nơi Đức Phật Thiền tịnh và đắc đạo mới được xem
là có đặc tính đặc biệt xứng đáng gọi là cây bồ đề thiêng. Cây bồ đề
Jaya Sri Maha Bodhi ở Anuradhapura, đảo Sri Lanka, lấy giống từ cây bồ
đề Sri Maya Bodhi ở Bodh Gaya, Bihar, nơi Đức Phật Thiền tịnh và đắc
đạo, được trồng từ năm 288 trước Tây Lịch (2300 tuổi tính đến năm 2012).
Cây bồ đề cùng dòng và cùng gia đình thảo mộc với cây đa. Cây cao lối 20m; lá hình trái tim. Trái chín màu tím đen.
Đối với người Ấn Độ
cây bồ đề được bao quanh bởi nhiều huyền thoại. Nó có nhiều công dụng
và tính năng trị liệu theo y học cổ truyền Ấn Độ. Ở Ấn Độ người ta trồng
cây bồ đề ở hướng Đông của nhà hay đền, chùa. Vỏ cây bồ đề có nhiều tannins được
dùng trong kỹ nghệ thuộc da. Từ vỏ cây bồ đề người ta khai thác màu
nhuộm màu đỏ. Lá bồ đề là nguồn thức ăn cho voi và lạc đà.
Lá,
vỏ, rễ, trái cây bồ đề dùng làm thuốc trị suyễn (trái tán thành bột),
tiêu hóa, loét, tê thấp, nướu răng đau (rễ), lá già vắt nước nhỏ vào tai
bị đau. Vỏ thân tán thành bột trị vết thương, viêm, loét, hoàng đản.
Lúa gạo
Tên khoa học của lúa gạo là Oryza sativa thuộc gia đình Poaceae.
Đó là một loại cây lương thực quan trọng ở Ấn Độ, các nước Đông Nam Á,
Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, các hải đảo Thái Bình Dương ngày xưa.
Cây lúa có năng xuất cao hơn lúa mì. Từ lúa biến thành gạo, cơm nhanh
chóng và giản dị hơn từ hột lúa mì biến thành bột mì và tạo ra ổ bánh
mì. Dân tộc ăn cơm đều nấu cơm ở nhà nhưng dân tộc ăn bánh mì không thể
nhồi bột mì, rải men, cho bột dậy và xây lò để nướng bánh mì trong nhà
dễ dàng được.
Cây lúa là nguồn
sống của nhân loại, đặc biệt là người Á Châu. Trung Hoa và Ấn Độ là hai
nước sản xuất và tiêu thụ nhiều lúa gạo nhất thế giới. Từ gạo người ta
làm ra bột, làm bánh, cất rượu, làm giấm và biến chế ra nhiều thức ăn
khác. Trấu được dùng nấu nướng thay than củi. Rơm dùng để làm thức ăn
khô cho trâu bò. Gốc rạ dùng để nấu nước uống và trị bịnh trái rạ. Người
ta ăn gạo lức đề ngừa bịnh thủng. Cám gạo dùng ̣để làm thức ăn cho heo
hay để làm một loại bánh ngọt lợ ăn để ngừa bịnh phù thủng. Gạo rang nấu
nước giúp cho người bị thổ tả phục hồi lại nước trong thân thể v.v…
Ấn Giáo tức đạo Bà La Môn (Brahmanism) là tôn giáo có ảnh hưởng tuyệt đối quan trọng ở Ấn Độ. Xã hội chia ra nhiều giai cấp:
1. Brahmins (Tu Sĩ)
2. Kshatriyas (Quân Nhân)
3. Vaisyas (Thương)
4. Shudras (Công)
Những
người Harijans là những người bần cùng, ngoại hạng không thuộc giai cấp
nào trong xã hội. Họ bị xã hội chê bai, khinh bỉ và xa lánh đến nỗi
không ai dám đụng đến họ vì sợ bị lây nghiệp chướng sâu nặng của họ. Vì
vậy người Tây Phương gọi họ là những người Parias hay Untouchables. Ấn
Giáo, Phật Giáo, đạo Sikh (Sikhism), đạo Jain (Jainism) đều chủ trương
ăn thực vật (Shakahara) và bất bạo động (ahimsa). Phái ăn thịt gọi là
Mansahara theo Phạn ngữ (Sanskrit). Nếu ăn thịt thì không ăn thịt heo và
thịt bò. Bò được xem là Vật thiêng. Thức ăn thực vật được đề cao. Vấn
đề này rất phức tạp vì theo cách diễn dịch của từng địa phương. Người Ấn
Giáo ở Nepal không ăn thịt bò nhưng ăn thịt trâu. Người Ấn Giáo ở Ấn Độ
không ăn thịt bò cũng không ăn thịt trâu. Có nơi không ăn vịt. Có nơi
không ăn hành, tỏi mặc dù thức ăn của Ấn Độ có nhiều hương liệu cay và
nồng.
Trong
xã hội Ấn Giáo người ăn thịt được xem là người nghèo thuộc giai cấp
thấp trong xã hội. Thực phẩm cho những người khất thực phần lớn xuất
phát từ những người thuộc giai cấp Thương (Vaisyas), Công (Shudras)
trong xã hội. Chắc chắn trong số đó có thịt (gà, vịt, dê, trừu nấu cari
v.v…) nhưng tu sĩ khất thực không thể vất ra vì làm vậy là coi thường
lòng thành kính của họ đối với người tu hành. Người tu có thể ăn thịt
với điều kiện không thấy con thú bị giết và không nghe tiếng rên rỉ, gào
thét của nó trong lúc bị giết. Chén cơm mà người phụ nữ dâng cho Phật
dưới cội bồ đề không thể là chén cơm trắng? Hay có thể là cơm trắng với
cà ri thực vật? Và ly sữa là sữa nấu từ thực vật như đậu nành, đậu phọng
chẳng hạn chớ không phải là sữa dê hay sữa bò? Dù là thức ăn chay hay
mặn, tất cả đều là lòng thành của người phụ nữ. Nhưng nếu bà chuẩn bị
thức ăn để dâng cho người tu thì bà nấu thức ăn chay. Nếu bà không chuẩn
bị thì bà có thức ăn gì mà trong nhà dùng thì bà dâng cho. Trong trường
hợp thái tử Siddharta ngồi tham Thiền dưới gốc cây bồ đề theo các tu sĩ
khắc khổ và gầy gò ốm yếu chắc chắn người phụ nữ nầy chuẩn bị nấu thức
ăn bổ dưỡng để dâng cho người tu để cứu Người khỏi cửa Tử Thần khi thực
hành phép tu khắc khổ. Thức ăn bổ dưỡng nhằm bồi bổ sức khỏe là thức ăn
có thịt hay thức ăn thực vật?
Bữa ăn cuối cùng của Ðức Phật: Thịt heo hay nấm truffle?
Đức
Phật và các đệ tử đến làng Pava và được Cunda, một người thợ rèn, nấu
món sukara-maddava cho Người dùng. Ăn xong Đức Phật thấy khó chịu vì đau
bụng dữ dội. Các đệ tử đưa Người về Kusinagara cách đó lối 10km. Người
bị đi kiết ra máu rất nhiều và khát nước vô hạn. Người gọi Ananda kiếm
nước cho Người uống. Ananda không thể lấy nước được vì có một đoàn xe bò
đi ngang qua dòng nước làm cho dòng nước bị đục và nổi lên nhiều vết
đất bùn dơ bẩn. Đức Phật viên tịch ở Kusinagara, tiểu bang Bihar, Ấn Độ,
dưới gốc cây shala.
Món sukara-maddava
là gì? Theo các bản dịch thì đó là “thịt heo mềm” (sukara: heo) khiến
cho người nghiên cứu lẫn các tín đồ Phật Giáo ngạc nhiên vì không lẽ nào
Cunda nấu thịt heo cho Đức Phật dùng! Như đã nói, Ấn Giáo
(Hinduism-Brahmanism thế kỷ XVI trước Tây Lịch), Phật Giáo, đạo Sikh hay
đạo Jain đều đề cao thức ăn thực vật, không lý nào Đức Phật lại dùng
thịt heo. Không phải ở Ấn Độ ngày xưa người ta không ăn thịt. Nhưng thịt
heo và thịt bò bị cấm chỉ. Sự cấm chỉ nầy có trước khi Do Thái Giáo
(Judaism – thế kỷ XI trước Tây Lịch) ở Trung Đông xuất hiện và cấm tín
đồ ăn thịt heo. Sau nầy đạo Hồi (Islam – thế kỷ VII) cũng ngăn cấm tín
đồ ăn thịt heo. Không lý nào Cunda dám vi phạm điều nầy? Và nếu có, nhằm
mục đích gì ông ấy lại phải mạo hiểm như vậy? Điều chắc chắn là món
sukara-maddava không phải là món ăn nấu bằng thịt heo vì khi bị quặn đau
bụng dữ dội, Đức Phật sợ người ta hiểu lầm Cunda có ý hại Người. Phật
chỉ khuyên Cunda đổ bỏ các món sukara-maddava còn lại vì sợ người ăn
khác cũng bị đau bụng dữ dội như vậy. Theo sự giải thích của một vị bác
sĩ Thái Lan, Mettando Bikkhu, qui y và trở thành Đại Đức thì Đức Phật
không bị ngộ độc vì thức ăn của Cunda. Vì chất độc chỉ bộc phát vài
tiếng đồng hồ sau khi ăn chớ không phải bộc phát ngay sau khi vừa ăn
xong như đã xảy ra với Đức Phật. Vị đại đức bác sĩ nầy cho rằng Phật
viên tịch vì già. Một mạch máu bị nghẽn không cung cấp máu cho ruột nên
gây sự quặn thắt đau đớn và bị xuất huyết đường ruột mà ông gọi là
mesentery infarction (infarctus mesenterium). Chứng bệnh nầy thường xảy
ra cho người già.
Vậy món
sukara-maddava được dịch là "thịt heo mềm" có vẻ không chính xác vì chỉ
có chữ sukara có nghĩa là heo mà thôi. Sau có người dịch là “sự ham
thích của heo” tức thực vật được heo ưa thích hay thực vật bị heo giẫm
lên (maddita) như măng tre hay nấm chẳng hạn. Ở Ấn Độ có nhiều tên thảo mộc có chữ sukara (Heo) như ta có Hoa Cứt Lợn tức cây Bù Xít Ageratum conyzoides, Cỏ Cứt Lợn Nepeta indica, Cỏ Cứt Heo (Hy Thiêm Thảo) Siegesbeckia orientalis chẳng hạn. Khi đề cập đến thực vật mà trư tộc ham thích, người ta liên tưởng đến nấm truffle có rất nhiều trong tiểu bang Bihar.
Tuber melanosporum
Gọi là nấm truffle do chữ tuber trong tiếng La Tinh có nghĩa là củ mà ra. Tên khoa học của nấm truffle làTuber melanosporum thuộc gia đình Tuberaceae.
Nấm truffle không có chân và tàng nấm như những loại nấm thông thường.
Nó chỉ là một khối tròn như một củ khoai to bằng cái chén. Trên mặt nấm
có nhiều đốm lồi lõm và lỗ nhỏ. Nấm không mọc lộ thiên trên mặt đất mà
nằm dưới đất như các loại khoai củ. Nấm truffle có nhiều ở Pháp (vùng
Périgord) và Ý. Nấm toát mùi của chất kích thích tố của heo đực nên muốn
tìm nấm phải dẫn một con heo cái đánh hơi và ủi đất để lấy nấm. Nấm
truffle rất quí vì việc tìm kiếm nó rất khó khăn. Vả lại khi ủi đất và
gặp nấm, con heo cái vội ăn nấm ngay! Vì vậy ngày nay người ta huấn
luyện chó đi tìm nấm truffle thay cho heo cái.
Nấm truffle trắng Tuber magnatum rất
đắt tiền. Mỗi pound (453 grams) nấm truffle trắng giá từ 1.000 - 2.000
Mỹ kim. Năm 2007 một chủ sòng bạc ở Macau, Stanley Ho, mua 1,5 ký lô nấm
truffle Ý với giá 330.000 Mỹ kim.
Tuber magnatum
Nấm truffle ở Ấn Độ là nấm Tuber indicum màu đen, không thơm giá khoảng 20 Mỹ kim một pound .
Tuber indicum
Nếu
món sukara-maddava là món nấm truffle thì đó là một món ăn quí giá vô
cùng. Nếu Cunda chọn nhầm nấm độc chớ không phải nấm truffle hay xào nấu
bằng nồi chảo đồng rỉ ten xanh độc thì không những Đức Phật bị ngộ độc
mà các đệ tử cũng bị trúng độc. Như vậy sự giải thích của Đại Đức bác sĩ
Mettanando Bhikkhu được xem là khả tín.
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
No comments:
Post a Comment