- Yêu ai cứ bảo là yêu
- Ghét ai cứ bảo là ghét
- Dù ai ngon ngọt nuông chiều
- Cũng không nói yêu thành ghét
- Dù ai cầm dao dọa giết
- Cũng không nói ghét thành yêụ
- Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
- Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
- Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
- Bút giấy tôi ai cướp giật đi
- Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
Bữa trước mình ra Huế, anh Ngô Minh nhắc
mình, nói mi mần chi thì mần, cố sắp xếp thời gian viếng mộ anh Quán
chị Trâm. Anh Ngô Minh nhắc hơi thừa, mình đã viếng mộ anh Quán chị Trâm
cách đó mấy ngày, trước khi bù khú với anh em văn nghệ Huế.
Nhờ
sáng kiến của Ngô Minh, những người yêu mến Phùng Quán đã nhiệt tình
hưởng ứng, khu mộ vợ chồng nhà thơ Phùng Quán đã được cất lên phía tây
làng Thủy Dương (quê Phùng Quán) phía Nam thành phố Huế, đã trở thành
một địa chỉ văn hóa của thành phố Huế cho khách thập phương, thật tuyệt
vời.
Mình nhớ năm 1995, ngày đưa anh Quán về trời, an táng ở quê chị Trâm thuộc Nhổn huyện Từ Liêm. Đám tang giữa mưa xuân.Từ khi đầu đám cho đến khi hạ huyệt mình không khóc. Nhưng khi hạ quan tài, thấy cái huyệt ngập nước, quan tài lún dần trong nước mình đã bật khóc. Chị Bội Trâm cũng xỉu đi, có lẽ chị không chịu nổi khi thấy anh Quán phải nằm trong nước. Liền mấy năm sau đó, ngày giỗ anh Quán nào chị Trâm cũng nói chuyện với mọi người ước nguyện của chị là đưa anh Quán về Thủy Dương quê anh.
Chị
nhắc đi nhắc lại hoài nghe thật sốt ruột. Từ khi anh Quán mất, chị mỗi
ngày mỗi héo đi. Gặp mình lần nào cũng nói chuyện anh Quán, chỉ nói
chuyện anh Quán không nói chuyện nào khác. Chị nói anh Quán đã cho chị
sống như chị muốn, giờ anh mất rồi, chỉ một ước nguyện cuối cùng là đưa
anh về Thủy Dương, mai mốt chị về trời, chị cũng muốn về Thủy Dương với
anh Quán. Rồi ngước lên bàn thờ rưng rưng nhìn anh Quán, chị chép miệng
nói biết hoàn cảnh mình không nhờ con được, chị đành trông cậy hết vào
bạn bè.
Hai
chục năm sau ước nguyện của chị Bội Trâm mới thành. Thực ra việc đưa
anh Quán về quê không khó. Họ hàng nhà anh Quán đã xin làng Thủy Dương
một mảnh đất làm khu mộ, bất kì khi nào chị Trâm muốn anh Quán về quê họ
cũng sẵn sàng. Nhưng khi chị Trâm còn sống không ai nỡ đưa anh Quán về
quê, chị ở Hà Nội anh nằm ở Huế sao đành. Ngày giỗ tết chị phải về Huế
thắp hương, đường xá xa xôi rất vất vả cho chị. Hơn nữa khi chị Trâm còn
sống, nếu đưa anh Quán về quê thế nào chính quyền cũng ra tay giúp đỡ,
điều mà anh Quán không muốn. Cho nên hai năm sau ngày chị Bội Trâm về
trời anh Ngô Minh mới bàn với họ hàng anh Quán đưa anh chị về Huế.
Anh
Ngô Minh là người có công rất lớn trong việc đưa chị Trâm anh Quán về
Huế, tạo nên khu mộ vợ chồng nhà thơ đầu tiên của cả nước. Vợ chồng về
trời được xây mộ bên nhau thì nhiều nhưng đó là do con cái dựng nên,
việc vợ một nhà nhà thơ được bạn bè và họ hàng nhà thơ kính cẩn rước về
quê ở trong khu mộ của nhà thơ là chuyện xưa nay hiếm. Có lẽ chị Bội
Trâm là người duy nhất được hưởng cái phúc này, bởi vì chị là vợ nhà thơ
xưa nay hiếm.
Gia đình Phùng Quán
Chị
Trâm bằng tuổi anh Quán, năm 23 tuổi chị là cô gái xinh đẹp phố Hàng
Cân, là giáo viên văn trường Chu Văn An, trường học danh giá ở Hà Thành.
Năm 1955 chị gặp và yêu anh Quán ngay trong năm đó, năm mà anh Quán vừa
mang cái án Nhân văn giai phẩm. Anh Quán bị đuổi ra khỏi quân đội, năm trước vừa về Văn nghệ quân đội ở 4 Lý Nam Đế năm sau đã bị buộc phải rời khỏi 4 Lý Nam Đế.
Cuốn sách Vượt Côn Đảo được giải thưởng, nổi tiếng như cồn khắp cả nước cũng không cứu được anh, Hội nhà văn khai trừ anh khỏi hội. Từ nhà văn quân đội danh giá Phùng Quán bỗng trở thành kẻ vô gia cư, một homeless hưởng trợ cấp của Hội nhà văn mỗi tháng 25 đồng, tiền cơm bụi cho loại nhà văn bị treo bút. Thế cũng gọi là may, nhiều người bị tù đày, bị đuổi ra khỏi thành phố và không một xu trợ cấp.
Cuốn sách Vượt Côn Đảo được giải thưởng, nổi tiếng như cồn khắp cả nước cũng không cứu được anh, Hội nhà văn khai trừ anh khỏi hội. Từ nhà văn quân đội danh giá Phùng Quán bỗng trở thành kẻ vô gia cư, một homeless hưởng trợ cấp của Hội nhà văn mỗi tháng 25 đồng, tiền cơm bụi cho loại nhà văn bị treo bút. Thế cũng gọi là may, nhiều người bị tù đày, bị đuổi ra khỏi thành phố và không một xu trợ cấp.
Chuyện
chị Bội Trâm yêu Phùng Quán gian nan thế nào có thể viết cả một cuốn
sách. Chị Trâm không kể cho ai nghe, lần nào mình hỏi chị cũng chép
miệng nói cực lắm em à, nhắc lại thêm buồn. Nhưng anh Quán thì kể, kể
rất nhiều, cứ mỗi lần hai người cãi nhau, giận nhau vì chuyện gì đó anh
Quán thường đem chuyện chị Trâm quyết lấy anh kể cho mọi người như là lý
do vì sao họ không thể chia tay nhau được.
Thời đó nghe mấy tiếng “bọn nhân văn” ai
nấy đã dựng tóc gáy nổi da gà, việc chị Trâm quyết yêu anh Quán đúng là
chuyện lạ. Nhà trường kiểm điểm, gia đình ruồng bỏ, họ hàng bà con ai
ai cũng phản đối. Mẹ chị uất quá, vừa khóc vừa mắng chị, nói lấy chồng
như thế thì thà nhảy nhảy xuống giếng cho xong. Chị Trâm vẫn không nao
núng, nói con đã yêu anh Quán nên con không thể yêu người khác. Nếu bố
mẹ không cho con lấy, con xin vâng lời, nhưng con sẽ không lấy người đàn
ông nào khác nữa. Cuối cùng bố mẹ chị cũng phải xuống thang cho cưới.
Thực ra anh Quán chị Trâm được đăng kí kết hôn thôi còn lễ cưới đã không xảy ra. Trăm sự vì cái tên Phùng Quán. Họ
sợ cái tên Phùng Quán có trong thiệp cưới liệu có mấy ai dám đến dự?
Bạn bè anh Quán hầu hết đã cắt đứt quan hệ, lặn một hơi không sủi tăm,
anh này chê anh kia hèn nhưng hễ gặp anh Quán anh nào cũng mắt trước mắt
sau chuồn lẹ. Bạn bè văn nghệ vẫn gần gũi với anh Quán trong những ngày
hoạn nạn như nhà thơ Tạ Vũ, nhà báo Xuân Đài, họa sĩ Lê Huy Quang, nhà
báo Xuân Trung… thật là hiếm.
Phông
chính đám cưới thời đó thường có đôi bồ câu cắp mỏ nhau, tên cô dâu chú
rể được treo lên đấy. Nếu đám cưới xảy ra, bà con hai họ thấy cái tên
Phùng Quán, “phần tử chống Đảng”, liệu có ai dám bước vào hôn trường nữa
không? Hơn nữa đang khi chính quyền đang phê phán bọn nhân văn mà một
phân tử nhân văn lại tổ chức đám cưới ngay trước mũi chính quyền, khác
nào thách đố nhau.
Nghĩ vậy nên họ không làm đám cưới, chỉ gửi cầu trau báo hỉ, cũng chỉ báo hỉ tên chi Trâm: “Trầu cau chạm ngõ của cô Trâm”,
ngay cái từ cưới cũng không dám dung, chỉ dám nói “ra riêng”. Anh Ngô
Minh tìm được cái thiệp báo hỉ do họa sĩ Lê Huy Quang vẽ, “mặt trước là
hai bông hoa do bạn thân, họa sĩ Lê Huy Quang vẽ, mặt sau có đôi chim bồ
câu và mấy chữ của Phùng Quán viết tay . Đây là thiếp báo tin gửi cho
cô giáo Mai Thị Từ của chị Trâm :” Chúng
em đã ra ở riêng ngày 12-1-1962. Chúng em nhờ những bông hoa này mang
tin vui đến với cô. Mong cô chia vui và mừng cho hạnh phúc của chúng em”.
Anh Ngô Minh đã nói về đám cưới anh Quán chị Trâm thế này: “Chị
Vũ Bội Trâm có lẽ là người con gái Việt Nam duy nhất lấy chồng không có
lễ tơ hồng, không đám cưới, không được mặc áo cưới, không lên xe hoa,
không có đưa dâu, không có phòng tân hôn sang trọng, không chụp ảnh,
quay phim…như các đám cưới bình thường khác…” Nghe mà ứa nước mắt. Vợ chồng Phùng Quán tổ chức tiệc cưới tại nhà bà Tưởng Dơi, mẹ nuôi của Phùng quán.
Bữa tiệc có vợ chồng Tạ Vũ và hai nhà báo Xuân Đài, Xuân Trung. Anh Ngô Minh kể Phùng Quán ra chợ mua hai con gà, ra Hồ Tây câu trộm ít cá, cùng với mấy lít rượu kí nợ nhà bà Hai Hạnh…thế là thành bữa tiệc. Mình hỏi anh Quán, anh cười, nói đâu có, mọi việc do bà mẹ nuôi lo cả. Sau này mới cá trộm rượu chịu văn chui chứ khi đó chẳng dám làm gì, chỉ biết trông vào 25 đồng trợ cấp của Hội nhà văn, cực lắm.
Bữa tiệc có vợ chồng Tạ Vũ và hai nhà báo Xuân Đài, Xuân Trung. Anh Ngô Minh kể Phùng Quán ra chợ mua hai con gà, ra Hồ Tây câu trộm ít cá, cùng với mấy lít rượu kí nợ nhà bà Hai Hạnh…thế là thành bữa tiệc. Mình hỏi anh Quán, anh cười, nói đâu có, mọi việc do bà mẹ nuôi lo cả. Sau này mới cá trộm rượu chịu văn chui chứ khi đó chẳng dám làm gì, chỉ biết trông vào 25 đồng trợ cấp của Hội nhà văn, cực lắm.
Sau
bữa tiệc là đêm tân hôn. Nhà bà Tưởng Dơi nhỏ hẹp, chỉ hơn chục mét
vuông chỉ có hai cái giường đơn, loại giường tập thể hồi đó rộng chừng
một mét, dài chừng mét sáu, anh Quán một giường, bà Tưởng Dơi một
giường. Bữa đó Tạ Vũ say, phải ngủ lại không về được, bà Tưởng Dơi phải
nhường giường cho họ, bà nằm võng. Vì nhà chỉ hơn chục mét vuông, để có
khoảng không mắc võng, hai cái giường phải xếp lại gần nhau. Đêm tân hôn
vợ chồng Phùng Quán nằm sát giường vợ chồng Tạ Vũ.
Họ
nằm im bên nhau, không dám ôm nhau, không dám hôn nhau dù là cái hôn
rất khẽ. Họ nằm ngửa, tay nắm chặt tay thở đều cố làm như mình đang ngủ
ngon, kì thực trắng đêm không ai chợp mắt.
Đó là đêm tân hôn có một không hai khắp thế gian này.
Nhớ chị Bội Trâm, thời rượu chịu cá trộm văn chui
Mình
kể chuyện chị Bội Trâm làm vợ cho nhiều cô, bà nghe. Ai cũng cảm phục
tấm lòng của chị nhưng khi hỏi họ: nếu rơi vào hoàn cảnh như chị Bội
Trâm thì cô bà có làm được như chị không, đa số đều trả lời không, không
dám và không muốn. Mình cho chị Trâm biết, chị cười, nói chị cũng không
dám và không muốn, chẳng qua trời khiến thì chị phải sống thôi. Mình
hỏi nhỏ chị, nói em hỏi thật chị nhé, sống với anh Quán chị có thấy hạnh
phúc không. Chị im lặng hồi lâu rồi thì thầm, nói nhiều lần anh Quán
hỏi chị vậy, lần nào chị cũng chỉ một câu trả lời: "nếu không hạnh phúc em đã bỏ anh lâu rồi."
Mình
cũng đã nghe nhiều cô, bà nói với mình như vậy, bà xã nhà mình cũng nói
với mình như vậy, hi hi… Nhưng làm được như chị Bội Trâm khó có ai dám.
Suốt cả cuộc đời ngụp lặn trong túng thiếu ( cả tình cảm lẫn vật chất)
để tìm kiếm hạnh phúc, trong số phụ nữ mình quen biết chắc chỉ có chị
Bội Trâm, không còn ai.
Cưới
xong anh Quán phải đi lao động cải tạo ở Thái Bình, Thanh Hoá, Việt
Trì. Chẳng ai buộc anh phải đi cải tạo cả, Hội nhà văn, Bộ văn hóa muốn
Phùng Quán trở thành nhà văn tốt nên động viên anh đi thôi, hi hi. Thời
đó nó hồn nhiên như thế, nhà văn tài không quan trọng bằng nhà văn tốt,
nhà văn tốt là nhà văn biết ba cùng với nông dân. Bác Tô Hoài kể Phùng Quán trở thành “vua phân bò” từ đó, những ngày ba cùng ở Thái Bình anh nhặt phân bò tài đến nỗi hố ủ phân vừa đào xong đã đầy, dân không kịp đào hố ủ cho Phùng Quán.
Mọi
người phong Phùng Quán là “vua phân bò”, anh phấn khởi lắm, nói nhờ rứa
mà văn Phùng Quán khỏi bị thối như phân. Anh còn xung phong lên rừng
núi Thái Nguyên suốt ba năm liến, một mình canh mấy hecta ngô khoai sắn
của cơ quan. Mình hỏi anh Quán, nói anh xung phong thiệt à? Anh cười
cái hậc, nói người ta gợi ý mình xung phong thì mình xung phong chớ
răng. Chẳng ai ép mình, chỉ nói tùy đồng chí thôi, nhưng thời đó cái chữ tùy dễ sợ lắm.
Trong
suốt mười năm sau ngày cưới, chị Trâm ở nhà mẹ phố Hàng Cân, anh Quán
đi cải tạo lao động thỉnh thoảng về nhà mẹ nuôi là bà Tưởng Dơi, vợ
chồng lại gặp nhau ở đấy, bí mật lén lút như đang yêu vậy. Ngay cả khi
có hai mặt con, cái Quyên và thằng Quân, anh chị cũng chỉ dám hẹn hò gặp
nhau ở nhà bà Tưởng Dơi, chưa dám công khai cho mọi người biết, “phần
tử chống đảng” dễ sợ vậy đó.
Anh
Quán đi cải tạo chị Trâm một mình nuôi hai đứa con, đến khi anh Quán
trở về, chị còn phải nuôi thêm anh Quán. Nuôi thêm anh Quán tức là nuôi
thêm bạn bè của anh Quán nữa. Từ khi trường Chu Văn An thương tình
cho vợ chồng anh Quán ở tạm nơi chứa đồ mộc thí nghiệm của nhà trường,
có chỗ chui vào chui ra, nhà chị không khi nào ngớt khách, luôn luôn có
ít nhất một bạn anh Quán ăn ở trong nhà anh chị. Lương giáo viên cấp 3
chỉ dùng được một tuần là hết, thỉnh thoảng anh Tuân Nguyễn, anh Xuân
Đài lấy một phần lương của họ đưa cho chị Trâm nhưng cũng chỉ như muối
bỏ bể, không ăn thua.
Nhiều
lần tan lớp chị Trâm đứng ở cổng trường, ngẩn ngơ không biết phải đi
đâu, làm gì có được một, hai đồng đi chợ. Tất cả những gì bán được đều
đã bán, tất cả những ai vay được đều đã vay, phòng tài vụ đã cho ứng
trước mấy tháng lương rồi, không thể ứng thêm được nữa. Khi đó chỉ có
khóc, trông chờ ông Bụt hiện ra hỏi vì sao con khóc, chẳng có cách nào
khác. Chị Trâm không khóc, ông Bụt cũng không hiện ra, nhưng lần nào
cũng vậy, cái số “có quí nhân phù trợ” đã giúp chị qua được cơn
bĩ cực. Thế nào rồi cũng có người đi qua, khi thì bạn chị khi thì bạn
anh Quán, nói đứng làm gì đó hả con kia, sao trông cái mặt như mặt mất
sổ gạo thế hả? Rồi người đó dúi cho một hai đồng, rất nhiều lần như thế.
Cũng
rất nhiều lần cầm một hai đồng về nhà chị thấy trong nhà vài ba người
khách, bữa cơm rượu hèn lắm cũng phải mất năm sáu đồng. Chị cứ xách giỏ
đi liều ra chợ, hy vọng cái số “ có quí nhân phù trợ” sẽ giúp chị. Nếu
hỏi nếu chẳng ai giúp thì sao, chị cũng chỉ biết cười trừ, chị hoàn toàn
không có câu trả lời. Trời đã trả lời giúp chị, đúng vậy, trời đã giúp
chị, chưa khi nào chị phải xách giỏ không trở về.
Một
lần bà hàng cá thấy chị đứng tần ngần trước mớ cá chép, lật đi lật lại
cái đầu cá mà không dám hỏi giá, hỏi làm sao khi túi chị chỉ còn có hơn
một đồng. Mãi rồi chị cũng phải đứng dậy bỏ đi. Bà hàng cá liền gọi
giật hỏi nhỏ, nói "vợ Phùng Quán phải không"? Và rồi con cá chép
hai cân có người mua bốn đồng rưỡi không chịu bán đã lọt vào cái giỏ
nhựa rách của chị. Chị xách con cá ra khỏi chợ không biết mơ hay thực
nữa, lâu lâu lại nhìn vào giỏ, chỉ sợ con cá tự dưng biến mất.
Anh
Quán nghe chị Trâm kể cảm động lắm, quyết ra Hồ Tây câu trộm một con cá
chép hai cân trả ơn bà hàng cá. Không câu được cá chép hai cân, bù lại
anh câu được sáu con cá mè và hai con cá chuối, con nào con ấy cỡ một
cân. Chị mang hết ra tặng lại bà hàng cá. Bà hàng cá mừng lắm, trả chị
mười hai đồng, nói ơn nghĩa là đây, em giúp chị có cá bán buôn là may
cho chị lắm rồi. Từ nay chị em mình dựa vào nhau mà sống. Nghề cá trộm
của Phùng Quán bắt đầu từ đó.
Còn
văn chui thì thế nào? Chị Bội Trâm mỉm cười, nói cũng nhờ bác Thanh
Tịnh cả đấy. Trước đó anh Quán chẳng dám nghĩ đến cái nghề văn chui đâu,
nhờ bác Thanh Tịnh bày cho đấy.
Chuyện là thế này.
Xưa làm ở Văn nghệ Quân đội, Phùng Quán vẫn hay hầu rượu hầu trà Thanh Tịnh, họ là đồng hương Thừa Thiên- Huế. Sau vụ Nhân văn giai phẩm, Thanh Tịnh là người duy nhất trong Văn nghệ quân đội
vẫn quan hệ với Phùng Quán (là nói thời kì đầu, về sau còn có Tào Mạt),
ông vẫn hay đến nhà Phùng Quán chơi, thân thiết cả hai vợ chồng.
Một
hôm chi Bội Trâm đạp xe về phố Hàng Cân, dọc đường gặp Thanh Tịnh đang
đi bộ trên vỉa hè, bác vẫy chị dừng xe, nói tao nghe nói thằng Quán rượu
chè ghê lắm, tiền rượu chịu lên bạc nghìn có phải không? Chị giật mình
ngạc nhiên, nói đâu có anh, anh Quán có rượu chịu nhưng chỉ năm bảy chục
một trăm đồng là anh í trả thôi mà. Thanh Tịnh lắc đầu nhăn mặt, nói cô
còn bao che cho chồng nữa. Chúng nó bảo tiền rượu lên tới ngàn hai rồi
đó, có bán nhà cô chú cũng không đủ trả.
Chị
Trâm thất sắc chạy về nhà bà chủ hàng rượu, cái cột nhà vạch vôi chi
chít, cứ một lít là một vạch, có đến hàng trăm vạch như thế, tính ra
chừng bốn trăm đồng. Chị thở phào nhẹ nhõm, bốn trăm còn hy vọng trả
được chứ nghìn hai thì chắc chết. Bà chủ chỉ cho chị Trâm ba cột khác
đầy vạch, nói còn ba cột năm ngoái đây nữa cô Trâm ơi. Chị hoa mắt, suýt
té xỉu. Chị về nhà ngồi khóc một mình không biết ngỏ cùng ai. Anh Quán
hiếu khách. Hễ có khách là có rượu, ngày nào cũng vài ba khách, tích
tiểu thành đại giờ lên đến ngàn hai trăm đồng. Thất kinh. Cái nhà mặt
tiền phố Huế lúc đó cũng giá nghìn hai trăm đồng chứ bao nhiêu đâu.
Vừa
lúc Thanh Tịnh đến chơi, thấy chị khóc ông mắng át đi, nói khóc có ra
tiền ra bạc được không? Lôi đống bản thảo thằng Quán cho tao xem may ra
có thể in được cái gì. Chị Trâm càng khóc to hơn, nói anh ơi anh Quán bị
treo bút, ai cho in mà in. Thời buổi nhất thân nhì quen này lấy tên
người lạ người ta không in cho đâu. Anh Tịnh cốc đầu chị Trâm, nói vợ
chồng chúng mày ngu lắm, không cho lấy tên thằng Quán thì lấy tên bạn bè
thằng Quán, ít nhất cũng có tên tao. Tao cho nó mượn tên cả đời.
Anh
Quán về nhà, chị Trâm kể cho anh nghe, anh nhảy lên hú mấy tiếng, nói
sáng kiến sáng kiến, Thanh Tịnh muôn năm! Hôm sau anh Quán ôm chồng kí
sự Vĩnh Linh đất lửa đến nhà Thanh Tịnh, nói chọ ni được mấy trăm
đồng? Thanh Tịnh ngắm nghía gật gù, nói chọ ni được chừng tám trăm. Mày
về viết thêm cuốn Nghệ thuật viết tấu và đọc tấu nữa, ráng bôi
ra hơn trăm trang cũng được bốn trăm đồng, vừa đủ trả nợ tiền rượu. Anh
Quán nói cuốn ấy có đặt người ta mới in, mình tự viết không ai in cho
đâu. Anh Tịnh cú đầu anh Quán, nói ngu lắm. Mày không nhớ tao là cây tấu
nổi tiếng à. Nhà xuất bản văn hóa đặt tao viết cả năm rồi nhưng tao nhác chưa viết được, mày viết đi.
Mấy
tháng sau hai cuốn sách lấy tên Thanh Tịnh ra đời, Thanh Tịnh tự đến
Nhà xuất bản lấy nhuận bút đưa cho chị Trâm. Anh Quán biện mâm rượu nhỏ
đội đến nhà Thanh Tịnh, anh quì sụp xuống vái Thạnh Tịnh ba vái, nói sư
huynh đã chỉ cho em con đường sống, đội ơn sư huynh suốt đời.
Cái
nghề văn chui của Phùng Quán cũng bắt đầu từ đó, cũng từ đó anh Quán
chị Trâm sống trong nơm nớp lo sợ. Lo bà chủ hàng rượu đòi nợ bất ngờ,
chưa bao giờ bà đòi nợ anh Quán cả nhưng phàm đã mắc nợ không thoát được
sự lo. Lo nhất vẫn là lo trộm cá bị bắt, văn chui bị phát hiện. Ba chục
năm sống trong nơm nớp, nghe tiếng chó sủa lạ cũng giật mình thon thót,
khổ thân anh Quán chị Trâm.
Sau
ngày anh Quán mất, mình nghĩ chị Bội Trâm sẽ khó khăn về kinh tế nên cố
tìm mọi cách tái bản sách anh Quán để chị có thêm đồng vào đồng ra. Bộ Tuổi thơ dữ dội được Nhà xuất bản Kim Đồng in thành 6 tập rất đẹp, nhuận bút tính kịt tường, mình mừng lắm vội vàng đem lên cho chị.
Chị Trâm ôm bộ sách đặt lên bàn thờ, nói "anh ơi, nhà Kim Đồng vừa in Tuổi thơ dữ dội đẹp chưa này. Mình đưa nhuận bút cho chị, chị đặt lên bàn thờ, nói Lập nó đưa nhuận bút đây anh, nhiều thế này em tiêu làm sao hết. Vừa nói xong chị bật khóc, ngồi run rẩy bên bàn thờ không nói được câu nào nữa."
Chị Trâm ôm bộ sách đặt lên bàn thờ, nói "anh ơi, nhà Kim Đồng vừa in Tuổi thơ dữ dội đẹp chưa này. Mình đưa nhuận bút cho chị, chị đặt lên bàn thờ, nói Lập nó đưa nhuận bút đây anh, nhiều thế này em tiêu làm sao hết. Vừa nói xong chị bật khóc, ngồi run rẩy bên bàn thờ không nói được câu nào nữa."
Sau
rồi chị tâm sự, nói ngày anh Quán mất, anh em bạn bè cúng rất nhiều
tiền, đến mấy chục triệu chứ không ít. Một mình chị Trâm chỉ tiêu hết 5
ngàn một ngày, lương hưu tiêu hảy còn thừa, chị không biết làm gì với
mấy chục triệu tiền cúng. Mình cười, nói chị lo bò trắng răng, lo gì lại
lo thừa tiền. Chị xua tay, nói không không, ý chị không phải vậy. Mình
hỏi sao. Chị ngồi thừ hồi lâu rồi khẽ thở dài, nói mấy chục năm sống với
anh Quán không một ngày nào chị không mơ có được nhiều tiền nhưng không
bao giờ có. Bây giờ có nhiều tiền rồi anh Quán lại bỏ chị mà đi.
Chị ngồi run rẫy bên bàn thờ, ngước nhìn anh Quán, nước mắt dàn dụa.
Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán
Nguyễn Quang Lập
Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995)
Những
năm tám mươi mình ở quê, mỗi lần ra Hà Nội mình thường trọ hai nơi, một
là nhà Phạm Xuân Nguyên, hai là nhà Phùng Quán. Chỉ hai nơi đó là mình
cảm thấy hoàn toàn tự do như ở nhà mình. Nhà thằng Nguyên bằng cái lỗ
mũi, chưa đầy chục mét vuông. Vợ chồng nó còn trẻ, có mình chúng nó như
bị cấm đoán chuyện vợ chồng, rất khổ nhưng chúng nó vẫn vui vẻ. Mình
cũng ái ngại lắm. Thường trước khi ngủ mình nốc rượu thật say, một là để
ngủ cho ngon, khỏi phải tưởng tượng lung tung, hai là ngầm thông báo
cho chúng nó là mình say rồi, “chết” rồi, muốn làm gì thì làm, hi hi.
Lúc
đầu cứ ra Hà Nội là mình tấp vào nhà thằng Nguyên. Một hôm, anh Quán
đến chơi nhà thằng Nguyên gặp mình ở đấy. Tàn cuộc anh kéo mình ra ngõ,
nói mày vô nhà lấy đồ anh chở lên nhà anh. Mình ngạc nhiên, nói răng rứa
anh. Anh cười, vỗ nhẹ vai mình, nói mày có vợ rồi mà tồ lắm. Mày nằm
chềnh ềnh ra đó, tụi nó biết mần ăn ra răng. Mình ok liền, vui vẻ theo
anh về nhà. Bây giờ mình mới để ý chiếc xe đạp của anh Quán, nó to quá
cỡ, trông thô kệch kinh hồn, chưa bao giờ mình thấy chiếc xe đạp nào to
kềnh càng và thô kệch như xe này, ống tuýp khung xe to hơn cổ tay, nan
vành xe chiếc nào chiếc nấy to bằng đầu đũa, không thèm nói ngoa.
Anh
Quán nói đó là xe trâu, người Nga dùng nó làm xe thồ, chở vài tạ vẫn
chạy tốt. Mình hỏi sao anh mua xe này. Anh cười cái hậc, nói tiền đâu mà
mua, có tiền cũng chẳng có mà mua, xe này khắp Hà Nội bói không ra một
chiếc. Mình nói ủa, rứa răng anh có. Anh nói người ta tặng. Mình hỏi ai
tặng, anh nói Lênin. Mình cười phì, nói anh không biết nói trạng. Lênin
chết năm nào, anh sinh năm nào mà bảo Lênin tặng anh chiếc xe đạp này.
Anh cười hì hì, nói rứa mới tài.
Mình
không hỏi nữa vì biết thế nào anh cũng kể, tính anh thích kể có đầu có
đuôi, ít khi kể gọn lỏn một câu. Anh hay kể mấy chuyện liên quan đến sự
viết của anh. Anh kể cái truyện Vượt Côn Đảo tất
nhiên anh bịa, hồi đó nghe người ta kể lại một phần anh bịa ra chín
phần. Cho đến ngày anh ngồi kể cho mình nghe, khoảng năm 85 – 86 chi đó,
anh vẫn chưa biết Côn Đảo méo hay tròn. Trong đó có mấy câu anh tả con
đường từ nhà tù ra bãi dương (trường bắn) được lót xương của các tù nhân
bị án tử hình. Là anh bịa ra thế để nâng cao lòng căm thù Đế quốc thực
dân chứ xương người làm sao lót được đường. Chẳng ngờ trong hồi ký của
một ông ở tù Côn Đảo về (ông này nổi tiếng lắm, không dám nêu tên, hi
hi) khi viết về con đường này cũng tả y chang như anh tả, cũng con đường
lót xương các tù nhân, he he.
Cũng chuyện tù Côn Đảo, trong Trường ca Võ Thị Sáu (thực ra là bài thơ dài, in nguyên một trang báo Tiền phong)
anh viết tuổi 16 chị Sáu vẫn hái hoa lê-ki-ma cài tóc. Buổi sáng ngày
bị hành hình, chị đã ngắt một nhành hoa lê-ki-ma cài lên mái tóc, trên
đường ra pháp trường chị vừa đi vừa hát. Anh đâu biết lê-ki-ma là cây
gì, nghe cái tên đẹp thì tưởng hoa của nó chắc đẹp lắm. Sau này mới biết
lê-ki-ma thực ra là cây quả trứng gà, hoa đã xấu lại đầy nhựa, “ngắt
một nhành hoa cài mái tóc” có mà dở hơi. Ai dè bác Nguyễn Đức Toàn lấy
cảm hứng từ bài thơ của anh để viết bài Biết ơn Võ Thị Sáu (chắc khi đó bác Toàn cũng không biết cây lê-ki-ma là cây gì): Mùa
hoa lê-ki-ma nở ở quê ta miền đất đỏ / Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh
hùng / Đã chết cho mùa hoa lê-ki-ma nở… Chị Sáu đã hy sinh rồi / Giọng
hát vẫn như còn vang dội vào trái tim… Anh Quán cười khà khà, nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu thì người ta lại bê nguyên chi tiết này vào, vui quá là vui.
Đến
ngày thứ ba anh Quán mới kể sự tích chiếc xe trâu. Bữa đó trời mưa, anh
đi đâu về, chạy rật rật vào nhà, miệng nói tay chỉ, nói Lập Lập mày bê
chiếc xe đạp vào nhà cho anh. Mình chạy ra, vừa nhấc lên đã lè lưỡi,
nặng quá là nặng. Mình vừa thở vừa nói xe này đúc bằng sắt hay sao, nặng
như chiếc xe máy. Anh Quán cười nhẹ, nói thì bằng sắt chứ sao, có tí
nhôm nào đâu, có rứa mới gọi là xe trâu. Anh lôi chai rượu vừa kiếm đâu
về rót ra hai ly, nói uống đi. Xe này anh kiếm được thời viết văn chui
đấy, chuyện hay lắm.
Anh
kể đâu như năm 69 – 70, bé Đỗ Quyên, con gái đầu của anh, đang học cấp
I. Mùa hè thì không sao, cứ đến mùa đông là nó thường xuyên đi học muộn.
Trời rét mướt cả nhà ngủ khì trong chăn ấm, đến khi tung chăn vùng dậy
đã bảy, tám giờ rồi. Con gái bị cô giáo phê bình liên tục, anh xót lắm,
nghĩ bụng không biết làm thế nào kiếm được cái đồng hồ báo thức. Đồng hồ
báo thức Liên Xô hồi đó bán phân phối giá 20 đồng, đối với anh Quán là
cả một món tiền to. Nhưng giá có kiếm được 20 đồng cũng chả đến lượt
anh, sổ gạo còn hồi hộp sợ có ngày bị cắt mất, anh đâu dám mơ được phân
phối đồng hồ.
Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên Xô,
vừa lật vài trang chợt thấy thông báo thể lệ cuộc thi viết về Lênin.
Ngó xuống phần giải thưởng, giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút
máy và một vài thứ khác. Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho
được cái giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con cò vàng trong cổ tích.
Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào Nghệ An cho chú em họ
đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được lấy tên anh ấy. Sở
dĩ anh lấy tên chú em họ, vì chuyện thi cử anh không dám mượn tên mấy
ông bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa lấy tên một người thuộc giai
cấp công nhân chắc người ta sẽ ưu tiên hơn.
Mới
gửi thì thấp thỏm lắm, thỉnh thoảng có bưu tá gọi ra ngõ lấy thư, trống
ngực đập to hơn trống làng, cứ tưởng bở thư chú em họ báo tin giải
thưởng. Hơn nửa năm vẫn biệt vô âm tín, tuyệt vọng luôn. Trách mình to
đầu mà dại, tự nhiên đơm đó ngọn tre, đấu với các anh tài của cả 12 nước
Xã hội Chủ nghĩa, cái giải rút cũng đừng có mà mơ.
Một
hôm rượu say anh ngủ như chết, chị Trâm, vợ anh, véo cho cái rõ đau.
Anh giật mình mở mắt, chị Trâm cầm tờ giấy báo trúng giải chú em họ vừa
cầm ra đưa qua đưa lại trước mắt anh, ối cha mẹ ơi giải nhất! Anh tự véo
đùi mình hai ba cái để xem mình tỉnh hay mơ. Chú em họ mặt nhăn như bị,
nói anh mần ri chết em rồi. Anh hỏi sao. Chú em họ kể giấy thông báo về
buổi sáng, buổi chiều đã ồn khắp lâm trường, một ngày sau thì ồn ra cả
tỉnh. Một ông công nhân ở nơi khỉ ho cò gáy bỗng nhận cái giải nhất của
Liên Xô, lại giải nhất viết về Lênin thế mới kinh. Đài lâm trường, đài
huyện, đài tỉnh đua nhau nói râm ran. Các nhà báo kéo nhau về lâm trường
ầm ầm, chú em họ hãi quá, nửa đêm nhảy tàu ra nhà anh.
Chuyện
nghiêm trọng. Việc này nếu lộ ra chẳng những anh mất toi cái giải nhất
mà việc viết văn chui của anh hơn chục năm qua nhất định bị lật tẩy,
khéo không tù tội như chơi. Anh lạy lục chú em họ đã thương thì thương
cho trót, cố làm sao đừng để chuyện này lộ ra. Anh diễn giải phân tích
cái truyện, đặt ra đủ loại câu hỏi rồi trả lời, để chú em họ đối phó với
đám nhà báo. Chú em họ cay đắng ra về, thôi thì đâm lao phải theo lao,
nếu lộ ra anh Quán chết thì anh cũng chết theo, chẳng phải chuyện chơi.
Được
hơn một tuần, nửa đêm chú em họ lại mò ra, lôi trong bị ra cái đồng hồ
báo thức và năm chục đồng đưa cho anh Quán, nói của anh đó, anh cầm đi
rồi tha cho em, hai ba tuần nay vợ chồng em mất ăn mất ngủ, kiểu này rồi
cũng “tăng xông” đứng tim mà chết, chẳng sống được đâu. Hỏi thì chú em
họ kể, hết lâm trường mít tinh biểu dương đến huyện, sở hội họp khen
ngợi. Lại còn Tỉnh ủy gọi lên chiêu đãi, tặng 50 đồng; Ủy ban tỉnh gọi
lên chiêu đãi, tặng đồng hồ báo thức. Hai vợ chồng chú em họ sợ hết hồn,
cứ mỗi lần có trát gọi là tim họ nhảy lên sau gáy, mặt mày xanh như đít
nhái.
Rồi
cũng qua. Ngày anh Quán đưa chú em họ đến Đại sứ quán Liên Xô nhận
chiếc xe đạp là ngày cuối cùng trong suốt ba tháng trời căng thẳng hồi
hộp. Anh nấp sau gốc cây bên kia đường, đối diện cổng Đại sứ quán, căng
thẳng đến độ mồ hôi đầm đìa toàn thân, ướt sũng cả áo quần, chỉ sợ đến
phút chót mọi việc bị lật tẩy. Chờ suốt ba tiếng đồng hồ mới thấy chú em
họ đẩy chiếc xe đạp đi ra. Anh ôm chầm lấy chú em họ nghẹn ngào không
nói được. Hồi lâu mới nấc lên, nói em ơi, ơn em đời đời kiếp kiếp. Anh
theo Vệ quốc quân vào sống ra chết không biết bao nhiêu lần, chưa lần
nào anh sợ như lần này.
Nghe đến đây tự nhiên mình muốn khóc.
Nguyễn Quang Lập
Nguồn: www.lexuanquang.org
No comments:
Post a Comment