Ngay sau ngày tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa (1.10.1949), Mao Trạch Đông đã tung Dã chiến quân số 2 (600.000 quân) đánh chiếm những vùng đất còn lại ở phía Đại Tây Nam và mở cuộc tấn công vũ trang lên dãy Hymalaya để… “giải phóng hòa bình Tây Tạng”! và để nhìn vào những bí ẩn dưới điện Potala...
Sách Mao Mao viết: "Mao Trạch Đông hạ lệnh cho đại quân Lưu - Đặng
(Lưu Bá Thừa và Đặng Tiểu Bình) đảm nhận nhiệm vụ tiến quân vào Tây
Tạng” ( tr. 835).
Họ lần lượt đánh chiếm Trùng Khánh (30.11.1949), Thành Đô (27.12.1949)
và mở đường áp sát phía đông dãy Hymalaya đầu năm 1950. Đến tháng 10
năm đó, phát động chiến dịch Xuyên Đô trong 18 ngày
“tiêu diệt 5.700 quân Tạng và mở toang cánh cửa tiến vào Tây Tạng”.
Vậy là, sau một năm hành quân, họ chiếm được “bệ phóng” chiến lược
dưới chân dãy Hymalaya để uy hiếp Tây Tạng về mặt quân sự. Mao Trạch
Đông kết hợp thêm đòn chính trị: vận động một số đại biểu Tây Tạng do
Abay Anang Dích Mê làm trưởng đoàn đến Bắc Kinh đàm phán. Kết quả:
“ngày 23.5.1951, hai bên ký kết Hiệp nghị về các biện pháp giải phóng hòa bình Tây Tạng”.
Vận dụng một trong các biện pháp “giải phóng hòa bình” của Hiệp nghị
trên, Mao Trạch Đông ra lệnh triển khai đội hình, chuẩn bị lương thực
khí tài đầy đủ trong hai tháng 6 và 7 để
“đến tháng 8 và 9.1951 bộ
đội Lưu - Đặng bắt đầu tiến quân lên nóc nhà thế giới - họ vượt qua
nhiều gềnh thác, xuyên qua nhiều khu rừng nguyên thủy và vùng thảo
nguyên đầm lầy mênh mông, chịu đựng giá rét và không khí loãng, tới
tháng 10 - 11 năm ấy đặt chân tới Lasha - thủ phủ của Tây Tạng” (Mao Mao,
sđd. tr. 835).
Từ đó, các chuyển biến thời cuộc nối theo đã biến Tây Tạng thành một
khu tự trị của Trung Quốc vào năm 1965, chiếm 12,8% tổng diện tích lục
địa, phía bắc giáp Tân Cương và Thanh Hải, phía đông - đông nam nối
liền tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam. Riêng
“phía nam và phía tây
có chung đường biên giới với Ấn Độ, Miến Điện, Bu-tan, Xích-kim và
Nê-pan, hình thành một đường biên giới tổng cộng dài gần 4.000km, vị trí
chiến lược hết sức quan trọng, có thể nói ổn định của Tây Tạng liên
quan đến sự ổn định và an ninh của miền tây Trung Quốc”. Chỉ xét riêng “vị trí nhạy cảm” đó cũng đủ để Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải xem Tây Tạng là “
một quân cờ mà chính phủ Trung Quốc không thể coi nhẹ” (Mã Linh - Lý Minh, sđd.
, tr.203-204). Ngược lại:
Đạt-lai Lạt-ma không xem Tây Tạng là “quân cờ” trên “bàn cờ bành
trướng” của Mao. Ngài phải rời Tây Tạng và trên đường lưu vong được
tổng thống Mỹ Bill Clinton đón tiếp. Bill Clinton viết
: “tôi
ủng hộ có thêm tự do chính trị ở Trung Quốc và vừa mời ngài Đạt-lai
Lạt-ma (và nhà hoạt động vì nhân quyền ở Hồng Kông là Martin Lee) đến
Nhà Trắng để nêu bật sự ủng hộ của tôi đối với sự toàn vẹn về văn hóa
và tôn giáo ở Tây Tạng - (cũng như duy trì nền dân chủ ở Hồng Kông)”-
Bill Clinton, sđd Kỳ 78, tr. 1.077. Tiếp đó, trong chuyến viếng thăm Trung Quốc tháng 6.1998, Bill Clinton thảo luận với chủ tịch Giang Trạch Dân và đã
“thúc
giục ông (Giang Trạch Dân) gặp gỡ với Đạt-lai Lạt-ma - Giang Trạch Dân
nói cánh cửa Trung Quốc rộng mở, nếu Đạt-lai Lạt-ma tuyên bố trước
rằng Tây Tạng và Đài Loan là một phần của Trung Quốc” (Bill Clinton, sđd. tr. 1.125).
Song, Đạt-lai Lạt-ma không bao giờ tuyên bố như vậy. Ngài không chấp nhận
“Tây Tạng là một phần của Trung Quốc” và
luôn giữ lập trường về một nước Tây Tạng độc lập. Sống ở nước ngoài
như trường hợp của ngài Đạt-lai Lạt-ma còn có những nhân vật quan trọng
khác của Lasha đang nắm giữ nhiều bí mật về đất nước Tây Tạng. Có thể
đọc thấy vài điều liên quan đến những bí mật đó qua cuốn
“Các Lạt-ma hóa thân”. (
Hồi ức Lobsang Rampa -
Lê Nguyễn dịch từ bản in của NXB Thượng Hải - NXB VHTT, Hà Nội 2003),
với đoạn tiết lộ bí ẩn dưới lòng đất của điện Potala ở Lasha (trích):
“Điện
Potala là một cung điện khổng lồ xây trên một ngọn đồi (…) trên nền
móng của một cung điện cũ. Tại sao người ta lại dựng nó ở trên một cung
điện cũ như thế? Điều này vẫn là một bí mật của xứ Tây Tạng. Ngọn núi
này xưa kia là một hỏa sơn có chứa trong lòng nó những hang động bí mật
với hàng ngàn đường hầm tỏa ra tứ phía. Có những hang động cất giấu
nhiều tài liệu cổ hàng chục thế kỷ trước. Có những kho chứa châu báu
vàng bạc từ thời đại xa xưa. Rất ít ai biết đến chỗ này”.
Tác giả tài liệu trên được sư phụ của mình (vốn rất thân cận với ngài
Đạt-lai Lạt-ma) dẫn đến điện Potala, đi qua dãy hành lang tối đến một
vòm cửa khá rộng. Đàng sau cánh cửa được đẩy ra là một miệng hầm sâu
hun hút dẫn đến những con đường
“dài như vô tận” mà ngay cả
những vị lãnh đạo trong hội đồng tôn giáo cũng không được phép đặt chân
đến nếu đức Đạt-lai Lạt-ma chưa đồng ý. Tác giả tường thuật tiếp:
“Chúng tôi đi mãi vẫn không thấy đáy, trên vách đá có ghi khắc
những hình kỷ hà lạ lùng mà tôi không biết là hình gì. Sau cùng chúng
tôi đến một cái hồ nằm sâu trong lòng đất, lúc đầu mặt hồ còn nhỏ
nhưng sau rộng lớn dần cho đến khi tầm xa của nó chìm hẳn trong bóng
tôi - ánh sáng của ngọn đuốc không soi tới được. Nước hồ đen như mực,
người ta có cảm giác rằng đó không phải là một cái hồ mà là một vực sâu
không đáy”. Sự hình thành của cái hồ kỳ lạ bí ẩn được giải thích:
“Sở
dĩ có hồ này vì trước kia, nơi đây chính là miệng một hỏa sơn to lớn.
Qua các trận địa chấn, miệng núi lửa bị lấp bớt đi một phần, người ta
lại xây dựng một cung điện úp lên trên miệng núi nên không còn ai thấy
dấu tích hỏa sơn kia đâu nữa. Vì diện tích hồ hoàn toàn nằm sâu trong
lòng đất, không một cơn gió, không một tia sáng lọt vào, nên mặt hồ lặng
lẽ, không gợn sóng. Ánh sáng ngọn đuốc trên vách đá phản chiếu những
màu sắc vàng lấp lánh. Tôi đến gần xem bỗng sững người, thì ra đó là
những mạch vàng lớn khoảng mấy chục thước bề ngang. Ngày xưa nhiệt độ
cao đã làm vàng chảy ra như sáp nến sau nguội dần và đông đặc lại thành
những mạch vàng dài như một con rồng uốn khúc”. Sư phụ nói
: -
“Bây giờ chắc con hiểu tại sao người ta xây một cung điện khủng lồ lên
trên miệng núi lửa rồi chứ? Sở dĩ phải làm thế vì đây là một mỏ vàng
lộ thiên lớn chưa từng thấy. Đa số các pho tượng Phật đều đúc bằng vàng
khối vì vàng ở đây rất nhiều. Nhưng nếu không biết che giấu, Tây Tạng
có thể trở nên một chiến trường đẫm máu do lòng tham vô độ của con
người”. Giá trị của các tiết lộ trên gắn liền với xuất thân và sứ mệnh đặc biệt của tác giả: Lobsang Rampa. Vậy Lobsang Rampa là ai?
Xác ướp của các lạt-ma Tây Tạng
Dưới thời Mao Trạch Đông, hồng vệ binh kéo đến xâm hại ngôi chùa cổ
Trát-thập Luân-bố do ngài Đạt-lai Lạt-ma đời thứ nhất dựng lên (từ năm
1447) – nơi có ngôi tháp nạm ngọc thờ di thể các Ban thiền được giữ gìn
nguyên vẹn theo bí thuật ướp xác Tây Tạng...
Lobsang Rampa tiếp tục thông tin về cách ướp xác theo kỹ thuật bí truyền Tây Tạng tóm lược trong bài viết này.
Song trước hết, có lẽ các độc giả cũng cần biết xuất thân và hành
trạng của ngài Lobsang Rampa qua các câu trích dẫn từ nguyên văn bản
dịch (trong ngoặc kép) với phần hồi ức của ngài Rampa (theo cuốn
“Các lạt-ma hóa thân”, 355 trang- sđd.
Kỳ 80) do Lê Nguyễn dịch, dưới đây: Lobsang Rampa là một vị lạt-ma hóa thân, tái sinh trong một gia đình quý tộc “
có thế lực vào bậc nhất Tây Tạng”.
Thân phụ của ngài Rampa lãnh đạo guồng máy hành chánh của nhà nước Tây
Tạng (vào trước thời Mao Trạch Đông chuyển đổi Tây Tạng thành khu tự
trị):
“Đứng đầu quốc gia và giáo hội là đức Đạt-lai Lạt-ma còn gọi Phật sống.
Ngài vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là nhà lãnh đạo tôn giáo và thẩm
phán tối cao của nền công lý xứ này. Tóm lại, ngài nắm trọn quyền lập
pháp, hành pháp và cả tư pháp nữa.
Dưới quyền lãnh đạo của Đạt-lai Lạt-ma có hai hội đồng: Hội đồng tôn giáo gồm 4 vị lạt-ma trưởng lão trông nom vấn đề tôn giáo. Hội đồng nội các gồm
4 vị tổng trưởng mà trong đó một người là tu sĩ, 3 người kia là dân sự
chịu trách nhiệm cai trị toàn xứ. Cha tôi (phụ thân ngài Lobsang
Rampa) là người đứng đầu Hội đồng nội các - là thủ tướng.
Dưới
Hội đồng nội các còn một quốc hội gồm 120 người nghị viên đại diện cho
120 làng mạc trong nước, các nghị viên này phần lớn là tu sĩ” (Lobsang
Rampa - sđd tr.17).
Quá bận rộn vì chức trách trên, thân phụ của Rampa đã giao ngài cho võ sư Tzu (là người có sức mạnh “
nhấc bổng một con trâu Yak lên khỏi mặt đất”) huấn luyện và giám thị ngài từ lúc mới lên bốn tuổi.
Đến sinh nhật lần thứ 7 của Rampa có hơn 200 người được phái lên các
ngọn núi tuyết cao vọi, vắng vẻ để cất công tìm hái những bông sen hiếm
hoi mọc trong tuyết (tuyết liên) về ngâm với mật ong, trộn chung cùng
các dược thảo Tạng truyền, vớt ra và phơi giữa trời cho gió thổi khô
đi, giòn ngọt. Món mứt “tuyết liên” tuyệt vời ấy đem dọn mời hai vị
chiêm tinh gia giỏi nhất Tây Tạng - đã tham cứu lá số của Rampa trước
đó nhiều ngày - và lên tiếng tiên tri (đại ý):
- Cậu bé sẽ dâng hiến
tuổi thơ của mình trong một tu viện để trở thành tu sĩ và cũng là một y
sĩ nắm giữ bí quyết của nền y học Tây Tạng. Khi trưởng thành, cậu phải
sống tha hương ở xứ người và sẽ “mất tất cả” để rồi sẽ “có lại tất cả”
từ con số không… Chiêm tinh gia dứt lời, bầu khí huyền bí sâu lắng
bao trùm quanh lễ sinh nhật và không lâu sau đó Rampa được gởi vào tu
viện Chakpori theo đúng tiên tri. Và cuộc đời ngài quả nhiên diễn ra như
đường vận hành của “ngôi sao định mệnh” được báo trước. Ngài sang
Trung Hoa, trôi dạt đến Anh quốc và một số nước khác ở châu Âu. Đến Mỹ
(1934) giới thiệu và bắt tay thực hiện việc chữa trị theo bí quyết Tây
Tạng ở bệnh viện y khoa John Hopkins và một số trung tâm y học quốc tế
khác “
đánh đổ quan niệm và thành kiến của các nhà khoa học Hoa Kỳ (thời bấy giờ) về môn y học Á Đông”.
Những nỗ lực của ngài cũng góp sức tạo uy tín, thu hút giới trí thức
Âu Mỹ hướng tầm nhìn về lịch sử Tây Tạng, cũng như nền y học và triết
học thâm mật của xứ này. Đặc biệt nữa, ngài góp phần mở đường để vị
Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 xuất hiện trên trường quốc tế cuối thập niên 1950
sau ngày bị đặc vụ của Mao Trạch Đông truy bắt. Đạt được những điều ấy
nhờ ngài đã hấp thụ nền tảng kiến thức y học và chương trình giáo lý
bí truyền từ nhỏ đến lớn ở tu viện Chakpori. Trước lúc qua đời, Sư
trưởng tu viện Chakpori (trụ trì hơn 100 năm) gọi ngài đến ân cần an
ủi, dặn dò và trao sứ mệnh (…) rồi thị tịch. Dầu đã mất, nhục thân của
Sư trưởng vẫn ngồi an nhiên theo thế liên hoa Sau lễ cầu siêu cùng các
nghi thức vãng sanh, nhục thân Sư trưởng được đưa lên bàn đá để bắt đầu
các giai đoạn ướp xác (do ngài Rampa thuật lại):
1. Tẩy uế lau rửa bên ngoài nhục thân bằng thứ nước thơm nấu từ
nhiều dược thảo chỉ mọc ở bình nguyên Tây Tạng, mổ lấy tất cả nội tạng
“
đem cất vào trong những cái vại sành đóng chặt”, rồi lau khô phía bên trong cơ thể bằng chất thuốc đặc chế
“thứ thuốc này sẽ đông đặc lại và nhờ đó thân hình người chết sẽ giữ được vẻ ngồi tự nhiên như khi còn sống”.
2. Đợi thuốc khô cứng lại, mới nhồi một số tơ lụa có tẩm sẵn dược
liệu và hương liệu vào bên trong xác ướp. Công đoạn này cần đến ít nhất
10 lạt-ma thông hiểu y lý và nắm vững bí quyết ướp xác thực hiện một
cách kiên nhẫn từng tý một trong suốt nhiều ngày đêm (không ước định
trước là bao lâu, chỉ lấy việc hoàn tất theo yêu cầu làm kỳ hạn cuối
cùng). Lưu ý: tu viện Chakpori là nơi đào tạo các danh gia y học Tây
Tạng
. Họ đắp từng lớp tơ lụa mỏng có ướp thuốc cho đến khi chúng
dày lên tới độ cần thiết cho kỹ thuật ướp xác. Trong quá trình đó họ
phải để mắt theo dõi, canh chừng để
“luôn luôn đổ thêm những chất thuốc khác nhau lên da thịt, đợi cho khô, rồi dán lên đó những lớp lụa thật mỏng”.
3. Khi nhục thân bảo đảm ướp đầy các lớp tơ lụa đủ liều lượng, xác
chuyển xuống căn phòng xây lún sâu vào vách đá, đặt trên sàn nhà có rải
lớp thuốc nghiền thành bột rất dày. Ở đó một lò nungđặc chế
“với những lỗ thông hơi chằng chịt để giữ nhiệt độ luân chuyển đều đặn quanh bức tường” thiết kế sẵn
. Mọi người rút lui, đóng cửa lại, để xác nằm giữa phòng vàcác lạt-ma châm lửa
“suốt bảy ngày ngọn lửa tí tách cháy - đến ngày thứ tám người ta mới tắt lửa” nhưng chưa mở cửa phòng vội. Phải đợi thêm vài hôm sau
“khi nhiệt độ trong phòng hạ xuống, người ta mới mở ra” - bắt đầu công đoạn khác.
4. Các lạt-ma chuyên trách
“cạo hết các lớp bột bám quanh xác
ướp và bóc hết các lớp vải bọc bên ngoài (…) cái xác trơ trụi y như
lúc còn sống, chỉ hơi đen xám đi một chút”, bấy giờ nhìn vào thấy xác ướpdường như
“có thể sống dậy bất cứ lúc nào”.
5. Để giữ lâu bền và làm đẹp hơn, những kỹ thuật viên chuyên trách “
đắp
các lớp vàng thật mỏng lên thi thể xác ướp - họ làm việc thật thong
thả, phết những lớp vàng tế nhuyễn, tinh xảo và khi hoàn tất, họ để lại
một xác ướp mạ vàng coi tự nhiên như người sống” và đưa lên kiệu chuyển đến
“một đường hầm bí mật mà cửa vào được ngụy trang hết sức cẩn thận”. Đi
hết đường hầm ấy, đến một căn phòng rộng lớn chứa 98 xác ướp được an
vị, thờ sẵn tự bao giờ…Thêm xác ướp của Sư trưởng vào chỗ ngồi dành sẵn
cho ngài, con số các “lạt-ma hóa thân” lên 99 vị.
Xong lễ, Rampa theo các lạt-ma bước ra
“bỗng nhiên tôi (Rampa) thấy
một sức hấp dẫn lạ lùng mãnh liệt từ một xác ướp bọc vàng. Tôi có cảm
giác như cái xác ướp đó mỉm cười với tôi. Đầu óc tôi bỗng vô cùng hoang
mang, choáng váng như có một cái gì đó thúc đẩy tôi bước nhẹ đến bên
xác ướp”. Thoáng trong sát-na, ngắn chỉ bằng hàng trăm nghìn phần
của một tích-tắc, Rampa bỗng đột ngột rơi vào tâm thái khác thường,
toàn thân run lên không kìm hãm được. Ngài viết:
“tôi bị xác ướp đó
thu hút, dường như nó biết rõ tất cả về tôi. Bỗng dưng một bàn tay để
nhẹ lên vai làm tôi giật mình, suýt té xỉu. Tôi quay người lại và nhận
ra sư phụ mình. Người nói thật khẽ: - “Phải đó, con đã nhận ra cái xác của con hồi kiếp trước. Chúng ta biết con sẽ tự nhận ra mình”
Cái chết của Ban-thiền Lạt-ma và án tử hình ở Lhasa
Mao Trạch Đông (giữa) và Ban-thiền Lạt-ma (trái) cùng Đạt-lai Lạt-ma tại Bắc Kinh, 1954
Các án tử hình và chung thân được tuyên vào cuối phiên tòa công khai
xử “12 phần tử phạm tội” trong cuộc biểu tình đòi Tây Tạng độc lập
trên đường phố Lhasa (năm 1989) liên quan xa gần đến cái chết đột ngột
của Ban-thiền Lạt-ma từng bị Mao Trạch Đông bắt giam tại Bắc Kinh khi
cách mạng văn hóa bùng nổ năm 1966…
Sách Mao Mao viết: “
Năm 1966, lịch sử nước Trung Hoa mới đã mở sang
một trang bất hạnh (…) Cha tôi, gia đình tôi, toàn thể nhân dân Trung
Quốc đều trải qua một thời kỳ điêu đứng, mê loạn, chính trị đảo điên,
tình người điên đảo” (Cha tôi Đặng Tiểu Bình –
sđd. tr. 853).
Thời kỳ ấy, Mao Trạch Đông “phát động căm hờn” để các tiểu quỷ hồng vệ
binh tấn công 2700 đền chùa Tây Tạng, xâm hại ngôi danh lam thiêng
liêng Trát-thập Luân-bố.
Trát-thập Luân-bố, tiếng Tây Tạng là:
Bkra-sis Ihun-po. Bkra-sis nghĩa là:
hạnh phúc, cát tường. Ihun-po:
ngọn núi. Cho nên
“tên chùa này có thể dịch là: Hạnh phúc sơn, hoặc Cát tường sơn”
(tọa lạc ở thành Nhật-cấp-tắc Shigatsé) với 3.000 gian điện đường, 4
học viện mật thừa và hiển thừa, 14 kim đỉnh, tượng Phật Di Lặc bằng đồng
mạ vàng cao 26,8 mét, nhiều bích họa và ấn chương bằng vàng ngọc (như
ấn
Đại tự đồ do Quốc sư đời Nguyên là Bát-tư-ba chế tác có khắc tiếng Mông Cổ), cùng các di vật có giá trị văn hóa khác.
Sáng lập bởi Đức Đạt-lai Lạt-ma đời thứ nhất (được xem là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm), đến đời Đạt-lai Lạt-ma thứ 5
“trở thành hệ thống của Ban-thiền, tăng chúng 3.800 vị, khi hưng thịnh có đến 7.000 vị” (
Từ điển Phật học Huệ Quang
- Hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên, NXB Tổng hợp TP. HCM – 2005,
tập VII, tr. 5752). Chua xót nhất của danh lam này là đã bị hủy hoại
ngôi tháp dát bạc và khảm ngọc thạch dùng
tôn thờ di thể (xác ướp) của các Ban-thiền.
Về
Ban-thiền Lạt-ma, Đoàn Trung Còn viết: Ở Tây Tạng “
có hai
vị Phật sống (Hoạt-Phật) chức vị lớn nhứt: Ngài Đạt-lai Lạt-ma (ngự ở
kinh thành Lhasa) và ngài Ban-thiền Lạt-ma (ngự ở Trát-thập Luân-bố -
Shigatsé). Ngài Đạt-lại Lạt-ma thì cầm quyền quốc chánh và tôn giáo.
Còn ngài Ban-thiền Lạt-ma thì được coi như bậc thầy cả về tôn giáo. Có
khi ngài Đạt-lai Lạt-ma vắng mặt hoặc tịch hóa thì ngài Ban-thiền Lạt-ma
thay quyền.
Các nhà đạo đức có dịp viếng qua xứ Tây Tạng và chầu đức Phật sống
Ban-thiền Lạt-ma đều công nhận rằng ngài có mật hạnh, cốt cách hiền hòa
và có dạ từ bi, hẳn là bực Phật Thánh giáng trần”. (
Phật học từ điển, Quyển I, Phật học toàn thư xuất bản, Sài Gòn 1966). Tìm hiểu về Ban-thiền Lạt-ma, quý độc giả vui lòng tham khảo thêm:
Từ điển Phật học Hán – Việt, Hòa thượng Kim Cương Tử chủ biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, tr.85. Và:
Từ điển Phật học Huệ Quang,
sđd. Tập I, tr.260.
Linh tháp chùa Trát-thập Luân-bố thờ 5 di thể Ban-thiền Lạt-ma đời thứ
5 đến đời thứ 9. Ban-thiền Lạt-ma đời thứ 10 đã viết bức thư dài
70.000 chữ phản đối Mao Trạch Đông phá hoại chùa Trát-thập Luân-bố và
triệt bỏ linh tháp. Mao tức giận, kết tội và bắt giam Ban-thiền. Mã
Linh - Lý Minh viết:
“Do bất mãn với cách làm kích động trong đại
cách mạng văn hóa, Ban-thiền đã gởi lên trung ương một bản thất vạn
ngôn thư (bức thư bảy vạn chữ) nên bị (Mao Trạch Đông) gán tội tống
giam vào tù” - Hồng Phượng dịch,
sđd ở Kỳ 77, tr. 214.
Đạt-lai Lạt-ma và Ban-thiền Lạt-ma đều bảo vệ Phật pháp Tây Tạng, song
hai ngài có hai cách xử thế khác nhau. Ngài Đạt-lai Lạt-ma (thứ 14)
phản đối quyết liệt đối sách của Mao Trạch Đông ghép Tây Tạng vào Trung
Quốc.
Ngài Ban-thiền Lạt-ma (đời thứ 10) liên lạc và lên tiếng ủng hộ Đảng
CS Trung Quốc từ lúc Mao Trạch Đông chưa về đến Bắc Kinh. Sau ngày Mao
Trạch Đông tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa, Ban-thiền công khai
tán thành chủ trương
“giải phóng hòa bình Tây Tạng” của Mao. Dầu
vậy, Mao vẫn không nể nang gì, trả đũa đàn áp thẳng tay những chỉ
trích thẳng thắn của Ban-thiền Lạt-ma (về các sai lầm của Mao). Quyết
liệt hơn, Mao kết tội Ban-thiền Lạt-ma theo con đường hữu khuynh để
giam vào ngục:
“mãi cuối thập niên 1970, Đảng Cộng sản Trung Quốc
bắt đầu dẹp loạn uốn nắn, Ban-thiền lại được trả tự do, khôi phục chức
vụ (Phó Chủ tịch Quốc hội - Phó Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị
toàn quốc - GH)”
Ra tù, Ban-thiền Lạt-ma về thăm chùa xưa Trát-thập Luân bố sau 18 năm xa cách. Các tín đồ quyết tử tìm đến
“đem di hài của số cao tăng mà họ đã mạo hiểm cả tính mạng giữ lại được trong đại cách mạng văn hóa” giao ngài.
Ban-thiền thỉnh nguyện Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo Trung Nam
Hải xây lại các Phật điện và ngôi linh pháp để hợp tán di hài của 5 vị
Ban-thiền và được chấp thuận. Bắc Kinh “đền bù” phần nào vàđã cấp
“108,35 ki-lô vàng, 1.000 ki-lô bạc” để xây linh tháp.
Sau 3 năm thi công, tháp hoàn thành ngày 10.12.1988 với
“diện tích 1.933 mét vuông, cao 33,17 thước tây, tầng tháp cao 11,52 thước tây”. Lễ
khai quang cử hành 20.1.1989 do ngài Ban-thiền chủ trì và Bí thư đảng
ủy khu tự trị Tây Tạng Hồ Cẩm Đào đọc diễn văn chúc mừng.
Một tuần sau, ngài Ban-thiền chưa kịp về lại Bắc Kinh
“đột nhiên bị nhồi máu cơ tim 28.1.1989” (sđd 218).
Từ Bắc Kinh, Ôn Gia Bảo (bấy giờ là Bí thư dự khuyết Ban bí thư trung
ương Đảng) lập tức dẫn các chuyên gia bệnh tim đáp chuyên cơ bay đến
Tây Tạng, nhưng không kịp nữa. Ban-thiền qua đời ngay hôm đó (28.1).
Do cái chết đột ngột của Ban-thiền Lạt-ma, Đại pháp hội truyền chiếu
(sinh hoạt truyền thống đã có ngót 500 năm ở Tây Tạng) sắp tổ chức phải
hoãn lại. Thêm nữa, Bắc Kinh lo ngại nếu tổ chức Đại pháp hội vào dịp
tròn 30 năm ngài Đạt-lai Lạt-ma phát động vũ trang giành độc lập Tây
Tạng (1959-1989) sẽ có khả năng xảy ra sự biến không hay.
Quyết định hủy bỏ
“đại pháp hội truyền chiếu” gây chấn động lớn
trong dân chúng và Phật giáo đồ Tây Tạng. Lhasa liên tục diễn ra 4 vụ
diễu hành đòi độc lập (từ 13.2 đến đầu 3.1989), lên đỉnh điểm ngày 5.3
với cuộc xuống đường của hơn 2.000 Phật tử: “
Một số người bắt đầu
xông vào đập phá cơ quan quận ủy và cơ quan chính quyền quận Thành
Quan, ném đá vào đồn công an, trên phố đèn đuốc sáng rực. Trong cuộc
gây rối ngày hôm đó, tổng cộng có 11 người chết, hơn 100 người bị thương”.
Hai ngày sau, bạo động vẫn tiếp diễn, Bắc Kinh ra lệnh cấm không ai
được phép ra đường, đi lại. Thành phố Lhasa vắng ngắt, chỉ còn quân đội
Trung Quốc và xe tăng án ngữ. Thống kê cho biết trong đợt đấu tranh đó
có “
gần 100 cửa hàng tư nhân và cửa hàng quốc doanh, tập thể bị đập
phá hoàn toàn - 9 cơ quan chính quyền, 1 trường tiểu học, 2 ủy ban khu
phố và một phân cục công an, 1 trụ sở phục vụ bảo an, 3 đồn công an bị
đập phá, hơn 20 chiếc ô tô bị đốt, 1.004 sạp bán hàng tư nhân trên phố
Bát Khoách không thể kinh doanh được từ ngày 4 đến ngày 7.3.1989” (Mã Linh – Lý Minh,
sđd. tr. 222 – 223).
Nhiều người bị bắt và Lhasa mở phiên tòa đặc biệt xét xử
“12 phần tử phạm tội trong sự kiện gây rối ở Lhasa ngày 5.3.1989” với án tử hình và tù chung thân. Đưa tin trên, tờ
Tây Tạng nhật báo gọi những người biểu tình đòi độc lập Tây Tạng là “yêu ma” và cảnh báo “
luật pháp của chúng ta (Trung Quốc) không phải là mũi “kim thêu” mà là “gậy giáng yêu” (chữ
dùng của bài xã luận). Vượt lên những đe dọa, Lhasa vẫn tiếp tục chứng
tỏ bản lĩnh “hoa sen trong biển lửa” vào thập niên đầu của thế kỷ 21…
Giao Hưởng (Motthegioi)