Cuộc Đời của con trai Út vua Bảo Đại - Huy Phương
“Hoàng tử” Bảo Ân. (Hình: Huy Phương)
Nhiều
người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một
người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.
Ðó
là ông Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không
hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người
con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời
tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ
phủ tỵ nạn, Westminster.
Chúng
tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà
gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của
vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất,
Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng (1).
Ðiều
đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là
người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con
Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không
có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo
Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo
Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là
Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là
cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai
song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời
năm 2012.
“Mệ”
Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà
Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng
Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày
4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý
truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể
của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp
của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà
trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì
nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh,
vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan
Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo
Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm
trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật
của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.
Sau
ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi
Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê,
rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng
ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân,
Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia,
trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản
riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công
dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian,
trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.
Cũng
theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính
quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một
ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của
Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối
xử tệ bạc này.
Tại
Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh
mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo
thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà
dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo
đạo Chúa khác.
Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Sau
thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân
dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang
Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu
vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng
Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn
vị gốc.
Cố
gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân
là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài
Gòn.
Sau
năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm
1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và
lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân
mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và
qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải
sống dưới chế độ cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia
đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.
Hai
nhân vật cuối cùng của giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh
Luân (cháu nội của Bảo Ân). (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.
Con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)
*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.
*Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.
* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).
* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).
“Họa vô đơn chí!”
Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Ngày
30 Tháng Tư, nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế,
tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7.
Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở
213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi phải dọn ra trong vòng
24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc
Loan.
Bức hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Tôi
không biết Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt
thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi
vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại,
chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị
Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất Ðính,
chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn
nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn
Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.
Giấy
tờ nhà đất chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để
chứng minh là nhà này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau
thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang được gì thì mang, còn những gì
nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và
nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.
Vào
một buổi sáng thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không
thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về
đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại, nay không cánh mà bay.
Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho Me tôi để lại,
đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số vốn để
buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho
chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để
mặc.
Sống
ở nhà Me tôi cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị
cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì
không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài
Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi, không hộ khẩu, không
chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và chị Phương
Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan Văn
Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho
công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm
thì mở mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo
leo sang nhà bên cạnh trốn cho mau.
Me
tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà
con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo
Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền đang tuyên truyền nói
xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp, vay mượn cho
chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.
Tôi
đi vượt biên tổng cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng
con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi
đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị
mất vàng chứ không bị bắt vào tù.
Hết
tiền, bà và chị Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy
mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền
Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể
buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là
quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một chiếc
khi tôi vào đại học.
Gian nan chốn chợ Trời
Vợ
chồng tôi bắt đầu ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các
bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết
hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món hàng mua cả năm rồi mà
không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả dạng cho người
khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau đó có
những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Thấy
coi bộ bán Chợ Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11,
được biết người bà con này có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước
tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến
Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, chúng
tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến
Thành.
Tôi
đứng ở ngoài giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách
hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương
một thời gian, chính quyền không cho xe ba bánh lưu thông những con
đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng
nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng tôi bàn
nhau đổi nghề một lần nữa.
Số
là khi đi lấy nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có
vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ
chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi
phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ xong, nếu còn dư
họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải chờ đợi
3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi đem
những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ
lớn.
Sau
một thời gian quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn
hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn
năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi
được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa
đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai vợ chồng. Bán
dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng bây giờ
chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn
trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?
Tôi
thì lo cho vợ tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho
tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì
ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều
giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận
lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt được thì đi tù là
cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.
Trong
một dịp tình cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại
anh bạn thương phế binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh
trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân
Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc. Hiện nay, anh đang
mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở
nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.
Sáng
chúng tôi đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua
nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe
nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho
phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu
càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay qua buôn bán đủ
thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)
Tôi
có một kỷ niệm không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là
Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi,
đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận coi hàng nên không thể chở
Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để
cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an và quản lý thị
trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn bán,
thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân
gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc
cuộc sống của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên
thằng con đang nằm ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn
Thái Bình vắng tanh không còn một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm
ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ “đem con bỏ chợ!”
Quân
theo gia đình đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp
lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở
với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở
Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày
tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.
Gian nan những chuyến đi
Khoảng
cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin
cho toàn gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi
Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận
cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp
Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương
Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó
khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo
trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể
chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện
ra đi không thành.
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004)
Năm
1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi
giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện
ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời
năm 1984.
Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.
Mãi
đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang
Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như
bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày,
ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng
Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con
trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý
Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty
ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia
đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005
gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu
tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu,
nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người
bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình
trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt
Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này
suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi
ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho
người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ
đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi
đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi
một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này
chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc
tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá
cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc.
Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?
Ông
Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp
cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không
ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha
Nghĩa
trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu
thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài
tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,)
họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel
Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)…
Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có
thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia
giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến
phần đất này cho ngài.
Về
việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có
người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh,
và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có
quyền xây mộ cho ngài.
Theo
sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có
tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời,
Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm
được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý
của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique
một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu có muốn
xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Ông
Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những
gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm
plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến
việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người
Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông
này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm
đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để
có thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà
Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba
năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng
làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.
Một
chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng
Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà
bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây
cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique
đồng ý và giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.
Gây quỹ
Tốn
phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công
ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông
đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài
cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng
góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại
ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của
mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu
khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà
không thực hiện được.
Sau
sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số
tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất
vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới
có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang
Pháp.
Năm
2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để
xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu
hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải
tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho
xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông
Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi
được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại
Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique
nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo
Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép
lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý
do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”
Việc
ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như
vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể
thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi
chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.
Ngoài
các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết
định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”(*) khắc
trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của
nó.
Trước
ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ
vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu
năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn
Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương
thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát
can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Con
trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành
ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của
gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt
tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày
khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn
người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại,
ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo
Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai
trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người
không ai muốn.
Ghi chú:
(*)
Theo nhà biên khảo Võ Hương An, 4 chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trong kim
khánh trên bia của lăng Vua Bảo Ðại tại nghĩa trang ở Paris, nhìn thì
đẹp nhưng không có nghĩa. Hai chữ sắc tứ (hay có khi là ân tứ) được dùng
khi vua ban thưởng một vật gì đó cho bầy tôi; ở đây, Vua Bảo Ðại đã là
vua rồi thì không viết “Bảo Ðại Sắc Tứ” được. Nếu muốn trang trí thì nên
ghi “Bảo Ðại Hoàng Ðế”.
Trong
bài báo này chúng tôi dùng tiếng “mộ” để chỉ nơi an nghỉ của Cựu Hoàng
Bảo Ðại. Nhưng theo sách vở triều Nguyễn, mộ của Hoàng Ðế, Hoàng Hậu,
Thái Hậu được gọi là “lăng,” còn ngoài ra, dân thường và quan lại, dù
đến nhất phẩm triều đình cũng chỉ được gọi là “mộ.”
Những đoạn đời gian truân
Ông
Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà
Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người
mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc
đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó
thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con
chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo
từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói
với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang
lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như
chúng tôi.
Một
thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho
chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng
tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ
chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm
không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy
khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê.
Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ
cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”
Trong
thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ
bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo
Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.
Ông
Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh
ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân
và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện
này, cũng đã rất thông cảm.
Năm
1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm
1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà
Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là
ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để
đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi
theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm
sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang
bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung.
Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều
người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế
trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít
ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc
Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn
Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải
dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Câu
hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài
sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ
trương, chính sách của cấp trên?
Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.
Ông
Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm
qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn
hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định
số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định
những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và
16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch
thu” của:
– Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
– Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại.
– Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
–
Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường
được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
– Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài
sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt
điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ
trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần
trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…
Chúng
ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung,
diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua
Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài
sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn
qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh
Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ
An Cựu cho đến khi bà qua đời.
Sống lưu vong, chết nghèo khó
Theo
lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị
truất phế, bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông
đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Ông
nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi
ra khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ
được. Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời”
(nguyên văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới
trở về với bà Mộng Ðiệp.
Cũng
theo lời tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không
muốn tin ai nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa
tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến
khi đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi
ông đi đâu thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải
bảo Hoàng Tử Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu
hoàng, thì ông giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét
nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện
thoại cho Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông
lại đi nữa.”
Thứ
Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay
đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm
1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm
ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo khổ và cô đơn
Năm
1967, Công Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia
đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp,
nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc
này cựu hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm
vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ
hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực,
nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh
chừng đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương
Minh cũng chỉ gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo
Thăng và các công chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc
Trưởng Bảo Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu
qua đời, ông cũng không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia
đình.
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)
Ðời
sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi
làm tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần
cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời
gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung
gởi qua. Mặc dầu các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài
không bao giờ đề cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến
chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai
cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa
ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm miền Nam.
Cũng
năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30
tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên
thánh là Jean-Robert.
Ở
Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở
với bà Monique trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến để
cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp,
bà Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ
phi, nhưng nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà
Monique đã đưa đến chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến
thăm viếng ông nữa và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống
trong cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc
ở hải ngoại, Bảo Ðại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân,
cùng đi với cựu hoàng có bà Monique.
Sau
khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh
không lui tới, thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y
Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ
chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà
thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh
cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy
sự hiện diện của thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối
cùng ở bên cạnh, với cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân
Pháp.
‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể
kết thúc 5 kỳ báo viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con
trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của
ông, được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc
trong lễ khánh thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng:
“Năm
1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của
chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh
nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của
chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do
hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm
tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha
mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực.
Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài
lời cầu xin được tha tội!”
“Nói
về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày
hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã
làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người
Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề
trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm
mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư,
bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của
quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng
trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.”
(Bảo Ân)
No comments:
Post a Comment