VUA THÀNH THÁI: NGUYỄN PHÚC BỬU LÂN
(1879 - 1954)
Nguyễn
Phúc Bửu Lân là vua thứ 10 của nhà Nguyễn. Ông là con thứ 7 của vua Dục
Đức, lúc vua cha bị thảm sát, ông được 4 tuổi, mẹ đưa về sống ở Quảng
Điền, Thừa Thiên.
Vua
Đồng Khánh mất năm 1889, có con là Bửu Đảo mới 3 tuổi, không thể nối
ngôi. Bà Tôn Nữ Thiện Niệm là cô ruột của Bửu Lân, bà là vợ của Diệp Văn
Cương. Diệp Văn Cương đang làm bí thư và thông ngôn, lại thăm dò ý kiến
Tổng sứ Pháp là Pierre Paul Rheinartt: “Triều đình Huế muốn tôn Hoàng tử Bửu Lân lên ngôi”; Rheinart đồng ý.
Bửu Lân lên ngôi ngày 31-12-1889, niên hiệu Thành Thái. Lúc ấy vua mới
10 tuổi, nên có hai phụ chính đại thần là Nguyễn Trọng Hợp và Trương
Quang Đán, sau đấy Trương Như Cương thay thế Trọng Hợp, Trương Như Cương
là người thân Pháp.
Vua
Thành Thái là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp. Vua học chữ Nho,
tiếng Pháp, còn cho các con của vua theo học chữ Pháp. Vua nghĩ rằng
muốn chống Pháp, phải hiểu Pháp, nên cắt tóc ngắn, mặc âu phục, làm quen
với văn minh Tây phương.
Vua có đầu óc tự cường dân tộc. Thế nên, vua tìm đọc sách tân thư, chữ
Hán và Nhật. Vua Thành Thái gần gũi dân và thương dân. Vua đã để ý đến
cả các loại vũ khí, nên bảo họa sĩ Lê Văn Miến (tốt nghiệp Trường Mỹ
thuật Paris) vẽ cho vua các khẩu súng của Pháp. Vua Thành Thái làm thơ
không nhiều, nhưng rất sâu sắc.
Có
lần, cầu Long Biên ở Hà Nội, khi xây dựng xong lấy tên Toàn quyền Pháp
là Doumer, Hoàng Cao Khải trình danh sách xin nhà vua ban thưởng cho
những người có công. Vua cười nhạt: “Trẫm có biết mặt mũi những đứa nào đâu?!”.
Những người Pháp đến gặp vua, không được vua tôn trọng vì vậy Pháp có thành kiến với vua.
Mặc dù, thời Thành Thái đang có toan tính chống quân xâm lược Pháp
nhưng đã có những công trình mới được xây dựng tại kinh đô Huế: Bệnh
viện, trường Quốc học, chợ Đông Ba, cầu Trường Tiền... đều được xây dựng
vào thời gian vua Thành Thái trị vì.
Sự
cải cách đất nước và toan tính chống Pháp của vua Thành Thái, Pháp thấy
được nên lo ngại và tìm cách đối phó. Để che mắt Pháp, vua phải giả như
một người mất trí. Khi các bản vẽ vũ khí của vua bị phát hiện, vua
Thành Thái giả điên, cào cấu các bà cung phi và xé nát các bản vẽ. Lợi
dụng cơ hội này, Pháp vu là vua bị điên, ép thoái vị, nhường ngôi cho
con vì lý do sức khoẻ. Khâm sứ Pháp còn nói thẳng là đã biết nhà vua có ý
đồ chống Pháp nên không để ông ở ngôi được. Nếu vua Thành Thái muốn tại
vị thì vua phải ký vào một tờ giấy xin lỗi và tuyên bố với quốc dân là
có âm mưu chống lại nước Pháp, nay xin thành thực hồi tâm, nhưng vua đã
ném tờ cáo thảo sẵn ấy xuống đất, từ chối.
Khâm
sứ Lévêque tuyên bố phế truất ngôi vua Thành Thái và quản thúc trong
Đại nội. Một Hội đồng Phụ chính do Trương Như Cương cầm đầu được thành
lập. Ngày 3-9-1907, Pháp bảo triều thần vào điện Càn thành dâng vua “Dự
thảo thoái vị” lấy lý do sức khoẻ, có chữ ký của các đại thần (trừ Ngô
Đình Khả). Xem xong bản dự thảo, vua cười nhạt, ghi hai chữ “phê chuẩn”
rồi quay lưng đi vào bên trong.
Ngày
12-9-1907, Pháp cho áp giải vua vào Sài Gòn, quản thúc tại Cap Saint
Jacques (ở Vũng Tàu), đến năm 1916 thì đày vua đến đảo Réunion. Gia đình
cựu hoàng thuê một căn nhà ở thành phố Saint Denis tại đảo. Thành Thái
và Hoàng phi Chí Lạc dạy các con tiếng Việt và nhạc dân tộc: Đàn cò, sáo
trúc... Tháng 5-1945, cựu hoàng được trở về nước, cùng gia đình sống ở
Villa Anna tại Cap Saint Jacques. Năm 1953, ông được về Huế thăm lăng
tẩm cha mẹ. Ông mất ngày 24-3-1954, hưởng thọ 75 tuổi, an táng nơi cạnh
An Lăng (Huế) là nơi lăng vua cha Dục Đức (1884) đã được an táng ở đấy.
Cảm phục: Vua Thành Thái
Vua Thành Thái, khí tiết hào hùng!
Lo lắng chống Tây, tâm nấu nung
Lưu luyến giang sơn, nên sốt sắng
Vấn vương Lạc Việt, há ung dung?!
Tự do nòi giống, sao nhân nhượng?
Độc lập quê hương, phải vẫy vùng!
Đày đọa đảo xa, nhung nhớ nước
Giữ gìn truyền thống, giữ kiên trung!
Nguyễn Lộc Yên
No comments:
Post a Comment