Đức Dalai Lama và Cực Thứ Ba của Trái Đất. nguồn:activeremedy.org
If Tibet dries, Asia dies. Nghĩa là: Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết
Hình
2: Jokhang, ngôi chùa có lịch sử hơn 1,300 năm ghi dấu một thời kỳ hưng
thịnh của quốc gia Tây Tạng. Tấm bia ghi bản hiệp ước giữa Đại Hoàng đế
Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 đã bị phá huỷ. Jokhang,
cùng với lâu đài Potala được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Thế giới.
Hình 3: Uống nước nhớ nguồn. Ngay sau cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Tạng 1959 bị Bắc Kinh đàn áp đẫm máu khiến Đức Dalai Lama và hơn 100,000 người Tây Tạng phải tỵ nạn sang Ấn Độ. Việt Nam Cộng Hoà lúc ấy đã tức thời gửi lúa gạo sang cứu trợ. Lúa gạo ấy đã được gieo trồng từ nguồn nước con Sông Mekong. Đức Dalai Lama đã tiếp Phái đoàn Việt Nam tại Darjeeling, Ấn Độ. Từ trái: Gs Lê Xuân Khoa Tổng thư ký Hội Văn hoá Á Châu, Thượng toạ Thích Trí Dũng, Đức Dalai Lama, và Phó Chủ tịch Quốc Hội VNCH Cổ Văn Hai. (4)
Hình 4: Jampa Yeshi, tên người thanh niên Tây Tạng đang chạy như một ngọn đuốc trên một đường phố New Dehi 26.3.2012 đòi tự do cho nhân dân Tây Tạng. Từ 2009 tới 2016, đã có 153 nhà sư và thường dân Tây Tạng tự thiêu phản kháng sự chiếm đóng của Trung Quốc. Nguồn: AP, photo by Manish Swarup
Hình 5: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, Palgrave MacMillan 2014
Hình 6: Hâm Nóng Toàn Cầu trên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, MacMillan 2014
Hình 7: Cứu Tây Tạng là cứu mạch sống Châu Á. Nguồn: International Campaign for Tibet
If Tibet dries, Asia dies. Nghĩa là: Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết
CỰC THỨ BA CỦA TRÁI ĐẤT
Khoảng
ba trăm triệu năm trước, Tây Tạng còn nằm dưới đáy biển Tethys nguyên
là một đại dương mênh mông bao trùm cả diện tích Châu Á và Ấn Độ. Do
hành trình va chạm dữ dội của hai khối tiền lục địa Gondwanaland và
Laurasia tạo nên cơn địa chấn với sức ép khổng lồ từ khối đất Ấn Độ dồn
lên phía bắc tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng.
Với lịch sử địa chất ấy, Tây Tạng là vùng đất cao từ 3500 tới 5000 m – được mệnh danh là “xứ tuyết”, “nóc của trái đất”, hay “Cực Thứ Ba / Third Pole” —
hai cực kia là Bắc Cực và Nam Cực. Tây Tạng với diện tích hơn một triệu
km2 gần bằng Tây Âu nhưng cô lập với thế giới bên ngoài bởi ba bề núi
non hiểm trở: phía nam là dãy Hy Mã Lạp Sơn, phía tây là rặng Karakoram,
phía bắc là các rặng Kunlun và Tangla; riêng phía đông cũng bị cắt
khoảng bởi các dãy núi không cao và lũng sâu và thoải dần xuống tới biên
giới Trung Hoa, ráp gianh với hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
Phía tây bắc, Tây Tạng là một vùng đất hoang đông giá, gần như không người no-man’s-land trải
dài hơn 1200 km từ tây sang đông. Phía nam là vùng núi non với thảo
nguyên, nơi sống của dân du mục với các đàn cừu dê và những con bò
Yaks. Phía đông là tỉnh Kham và đông bắc là tỉnh Amdo (quê hương của Đức Dalai Lama thứ
14) là vùng trù phú và đông dân nhất. Thứ đến là vùng đất phía nam khí
hậu bớt khắc nghiệt, nơi có con Sông Yarlung Tsangpo với những phụ lưu
như một mạch sống.
Người
nông dân Tây Tạng chủ yếu trồng lúa mạch và khoai tây là hoa màu phụ.
Khí hậu thay đổi thất thường như mưa đá, đông giá nên mùa màng luôn luôn
bị hư hại. Nguồn thực phẩm ổn định hơn là nuôi gia súc ngoài đàn bò
Yaks còn có trừu, dê và gà để lấy trứng. Tsampa làm từ bột lúa mạch sấy
là món ăn thường nhật của người Tây Tạng. Quốc gia Tây Tạng là hình ảnh
mênh mông của những thảo nguyên với núi cao và lũng sâu, bầu trời thường
thì trong xanh như ngọc. Cho tới cuối thế kỷ 19, nếp sống của họ vẫn
vậy như từ hàng ngàn năm trước.
XỨ SỞ CỦA ĐẠO PHẬT
Đạo
Phật du nhập vào Tây Tạng 12 thế kỷ sau khi Phật Thích Ca nhập niết
bàn, khoảng thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Khí Tông Cương Tán (Songtsen
Gampo) là một tù trưởng tài ba đã thống nhất được các bộ lạc trên cả một
vùng băng tuyết tới chân Hy Mã Lạp Sơn; ông cưới công chúa Nepal làm
hoàng hậu và chính nàng công chúa này đã du nhập đạo Phật vào Tây Tạng.
Tây Tạng thời kỳ ấy là một quốc gia hùng mạnh khiến vua Trung Hoa đời
Nhà Đường cũng phải xin cầu hòa và gả công chúa cho Khí Công Cương Tán,
nàng công chúa gốc Hán này cũng đem đạo Phật vào Tây Tạng. Đạo Phật từ
đó đã phát triển rất mạnh trên vùng đất mới, hòa nhập với tín ngưỡng Bon
đa thần để biến thể thành một thứ đạo Phật cao siêu và thần bí.
Tới
thế kỷ 14 một vị chân tu tên Tống Cáp Ba – Tsongkhapa đã sáng lập nên
phái Hoàng Mão Hoàng Y của Phật giáo chính thống Tây Tạng. Sau khi ông
mất, người kế thừa cũng là một vị chân tu tên Gendun Drup được toàn thể
giới tăng lữ suy tôn làm Dalai Lama (Lama là một từ Tây Tạng có nghĩa là
bậc thầy), ông có công phát huy đạo Phật đồng thời cũng xây dựng được
một nền hành chánh kết hợp với giáo quyền trị vì quốc gia Tây Tạng. Vị
đại sư mưu trí này đã đặt ra quy luật tái sanh của Dalai Lama theo đó
khi chết linh hồn vị Dalai Lama sẽ nhập vào một trẻ sơ sinh như hiện
thân của Bồ Tát Quán Thế Âm – Bodhisatva Avalokitesara.
Tới
thế kỷ 16, do các giáo phái lại chống đối nhau dẫn tới sự can thiệp của
quân Mông Cổ, sau đó thì chính Đại Hãn Mông Cổ là Altan Khan do cảm
phục kiến thức cao sâu của vị đại sư nên cũng xin quy y, đồng thời phong
tước cho vị Lama là Dalai Lama – Dalai là từ Mông Cổ có nghĩa biển cả,
bao hàm kiến thức mênh mông.
Đây
là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Tây Tạng ghi dấu bằng công trình xây
cất Lâu Đài Mùa Đông – Cung Điện Potala 1000 phòng của các vị Dalai
Lama, được coi như một kỳ quan kiến trúc của thế giới.
Nhưng
về phương diện lịch sử thì ngôi Chùa Jokhang mới là di tích cổ kính
nhất, được xây dưới triều vua Khí Tông Cương Tán, nơi chứa tượng Phật do
công chúa Nepal thỉnh về. Kỳ quan của Jokhang không phải chỉ là các
tượng Phật mà là tấm bia đá dựng trước chùa như di tích lịch sử về một
quá khứ hùng mạnh của quốc gia Tây Tạng, đã từng gây khốn đốn cho các
vua Trung Hoa đời nhà Đường. Trên tấm bia là bản hiệp ước được phê chuẩn
bởi Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 khắc
bằng hai thứ tiếng Tây Tạng và Trung Hoa với nội dung [Hình 2]:
“Thỏa
thuận cùng nhau về sự liên minh giữa hai quốc gia… tìm cách ngăn ngừa
những nguyên nhân gây tàn hại cho hai xứ sở bây giờ và mai sau, để mang
lại hòa bình lâu dài cho thần dân hai nước. Thỏa ước được khắc trên bia
này để cho các thế hệ tương lai được biết tới.” (1)
Giữa
thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng [618-907] nơi đầu nguồn Sông
Mekong thì lúc ấy Việt Nam lại đang phải sống trong tối tăm nhục nhã
dưới ách thống trị của người Tàu với cái tên An Nam Đô Hộ Phủ. Việt Nam
đã bị nô lệ Tàu tổng cộng 1050 năm trước khi lấy lại được nền tự chủ với
các triều đại Ngô, Lê, Lý, Trần.
Nhưng
rồi cũng không tránh được lẽ thịnh suy, những thế kỷ sau đó Tây Tạng
lại bị Trung Hoa xâm lấn, thủ đô Lhasa thường xuyên bị chiếm đóng. Đến
đầu thế kỷ 20, nhân lúc triều đình Mãn Thanh bị cuộc Cách Mạng Tân Hợi
của Tôn Dật Tiên lật đổ, nhân dân Tây Tạng đã lại vùng lên và tuyên bố
độc lập nhưng bị đàn áp và đã gặp phải sự thờ ơ đến tàn nhẫn của thế
giới. Trung Hoa cho dù dưới thể chế chánh trị nào vẫn xem Tây Tạng như
phần lãnh thổ của họ.
MỘT TÂY TẠNG ĐAU THƯƠNG
Năm
1933 khi vị Dalai Lama 13 viên tịch, tương truyền rằng người ta thấy
mặt ngài ngoảnh về hướng đông bắc, phía tỉnh Amdo. Kết hợp với một số
điềm báo triệu khác, các vị trong hội đồng giáo phẩm tới được ngôi làng
Takster tỉnh Amdo và họ đã tìm ra đứa trẻ hai tuổi là đứa con thứ tư
trong một gia đình nông dân nghèo khó, và sau một chuỗi những trắc
nghiệm thử thách, cậu bé Tenzin Gyatso sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935,
được công nhận là hiện thân của Đức Dalai Lama thứ 14.
Amdo
lúc đó đang thuộc quyền kiểm soát của quân Trung Quốc nên phải trải qua
hai năm thương thuyết khó khăn, cậu bé Tenzin Gyatso mới được rời Amdo
lên thủ đô Lhasa và được đưa vào Cung Điện Mùa Hè Norbulingka rồi Cung
Điện Mùa Đông Potala để được nuôi dưỡng và giáo dục đúng theo giáo lý
bởi những vị cao tăng uyên bác. Trong thời gian đó, một quan nhiếp chính
được chỉ định để lo việc nước.
Tình
hình càng trở nên tệ hại khi Tưởng Giới Thạch bị thua phải chạy ra đảo
Đài Loan (1949), Hồng Quân chiếm trọn Hoa Lục đồng thời cũng xua quân
vào cưỡng chiếm Tây Tạng với chiêu bài “giải phóng nhân dân Tây Tạng đang bị giai cấp phong kiến áp bức.”
Và
đã có ngay từng đợt hàng trăm ngàn binh lính Trung Cộng tiến vào Tây
Tạng, kéo theo sau là gia đình của họ. Khác xa với hứa hẹn ban đầu bảo
đảm tự do tín ngưỡng và phong tục tập quán của dân Tây Tạng, họ mở ngay
chiến dịch chống tôn giáo, đồng thời thi hành “chánh sách tàm thực/ tầm ăn dâu” không ngừng di dân gốc Hán vào đất nước Tây Tạng.
Năm
1950, do nhu cầu cấp bách của thời cuộc, ở cái tuổi mới 16, Tenzin
Gyatso đã phải rất sớm đứng ra đảm đương mọi trách nhiệm chánh trị điều
hành quốc gia Tây Tạng. Năm 1954, Gyatso bị đưa sang Trung Quốc gặp Mao
Trạch Đông trong ý muốn thuyết phục vị Dalai Lama trẻ tuổi ấy chấp nhận
một xứ sở Tây Tạng sát nhập vào trật tự nước Trung Hoa.
Trước
nguy cơ diệt vong, năm 1959 nhân dân Tây Tạng lại nhất loạt nổi dậy,
nhưng đã bị Hồng Quân trấn áp và tàn sát không thương tiếc. Trong cuốn
tự truyện Tự Do Trong Lưu Đầy – Freedom in Exile, Tenzin Gyatso viết:
“Trong
gần một thập niên, ở cương vị người lãnh đạo chánh trị và tôn giáo cho
dân tộc Tây Tạng, tôi đã cố gắng tái tạo mối liên hệ hòa bình giữa hai
quốc gia Tây Tạng và Trung Hoa, nhưng trách vụ ấy không thể hoàn thành.
Tôi đi tới kết luận là tôi sẽ phục vụ dân tộc tôi được nhiều hơn nếu tôi
sống ở nước ngoài.” (1)
Đức
Dalai Lama thứ 14 đã dẫn hơn một trăm ngàn dân Tây Tạng vượt biên giới
thoát sang Ấn Độ. Bất chấp sự chống đối và cả hăm dọa của Bắc Kinh,
chánh phủ Ấn vẫn giúp định cư số người Tây Tạng lưu vong này nơi thị
trấn Dharmasala dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn. Một chánh phủ lưu vong
Kashag được hình thành như niềm hy vọng sống còn đối với người dân Tây
Tạng trong nước.
Phía
Trung Quốc bất kể nguyện vọng dân Tây Tạng ra sao, họ vẫn sát nhập quốc
gia này vào “Nước mẹ vĩ đại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.” Tháng 9 năm
1965, Bắc Kinh tuyên bố lập “Vùng tự trị Tây Tạng – Tibetan Autonomous Region” trực thuộc nước Trung Hoa. Điều ấy có nghĩa là quốc gia Tây Tạng bị Bắc Kinh xoá tên trên bản đồ thế giới.
Và
rồi các giai đoạn thảm khốc nhất đã diễn ra trong suốt thập niên sau đó
khi có cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Cả một di sản văn hóa của dân tộc Tây
Tạng bị tận diệt một cách công khai và có hệ thống bởi những đoàn Vệ
Binh Đỏ. Các đền đài tu viện bị phá trụi, các tranh tượng tôn giáo bị
hủy hoại. Hàng chục ngàn người Tây Tạng bị kết tội “phản động” vì không
chịu lên án Đức Dalai Lama và từ bỏ đức tin của họ.
Theo
thống kê của Trung Cộng (1982) có 3.87 triệu người Tây Tạng, nếp sống
đơn sơ và hiếu khách nhưng họ là một dân tộc đang phải sống trong nô lệ
và chịu nỗi khổ đau vô hạn “trong nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.Hình 3: Uống nước nhớ nguồn. Ngay sau cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Tạng 1959 bị Bắc Kinh đàn áp đẫm máu khiến Đức Dalai Lama và hơn 100,000 người Tây Tạng phải tỵ nạn sang Ấn Độ. Việt Nam Cộng Hoà lúc ấy đã tức thời gửi lúa gạo sang cứu trợ. Lúa gạo ấy đã được gieo trồng từ nguồn nước con Sông Mekong. Đức Dalai Lama đã tiếp Phái đoàn Việt Nam tại Darjeeling, Ấn Độ. Từ trái: Gs Lê Xuân Khoa Tổng thư ký Hội Văn hoá Á Châu, Thượng toạ Thích Trí Dũng, Đức Dalai Lama, và Phó Chủ tịch Quốc Hội VNCH Cổ Văn Hai. (4)
Tháng
10 năm 1987, không còn kiên nhẫn hơn được nữa, dân Tây Tạng lại vùng
dậy và cũng lại bị quân chiếm đóng Trung Cộng đàn áp tàn bạo. Đã có
khoảng 1.2 triệu người Tây Tạng bị giết, một con số thật khủng khiếp nếu
so với tổng số dân Tây Tạng chưa tới 4 triệu.
Để
phối hợp với các cuộc đấu tranh ở trong nước, Đức Dalai Lama đã rời
Dharmasala và du hành qua nhiều quốc gia trên thế giới để nói lên nguyện
vọng được sống trong độc lập và tự do của nhân dân Tây Tạng.
Tenzin
Gyatso chỉ nhận mình là một nhà sư giản dị, không bao giờ tự huyền
thoại hóa mình là Phật Sống. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, vẫn luôn luôn
là một con người nhu hòa không định kiến, vượt lên trên mọi khen chê.
Ông là một con người giàu lòng từ bi, hơn thế nữa là con người của tự
do. Với tinh thần bất bạo động linh hoạt – active non-violence,
ông luôn luôn cố gắng tái tạo mối liên hệ tin cậy và hòa bình với phía
thù nghịch cho dù Bắc Kinh không từ một thủ đoạn nào để gây tai tiếng và
bôi nhọ ông.Hình 4: Jampa Yeshi, tên người thanh niên Tây Tạng đang chạy như một ngọn đuốc trên một đường phố New Dehi 26.3.2012 đòi tự do cho nhân dân Tây Tạng. Từ 2009 tới 2016, đã có 153 nhà sư và thường dân Tây Tạng tự thiêu phản kháng sự chiếm đóng của Trung Quốc. Nguồn: AP, photo by Manish Swarup
Cho
dù gần đây Trung Cộng cho xây dựng lại một số chùa chiền ở Tây Tạng bề
ngoài như một “sửa sai sau Cách Mạng Văn Hóa” nhưng chỉ là để phát triển
kỹ nghệ du lịch; cùng một lúc họ cho gài công an chìm vào khắp các tu
viện, đi xa hơn nữa Bắc Kinh còn cấm người trẻ đi tu và đồng thời cưỡng
bách các vị sư già ngoài 60 tuổi phải về hưu trong khi vẫn không ngừng
rêu rao “Tự do tôn giáo là điều được ghi trong hiến pháp”.
Nếu
chỉ viếng thăm Tây Tạng “như một khách du lịch” và đi theo đoàn du
khách với cô hướng dẫn người gốc Hán thì mọi sự đều rất êm thấm, cũng
như một số khách Tây Phương – kể cả chánh trị gia lão thành Edward Heath
cựu thủ tướng Anh, được Bắc Kinh tổ chức cho đi thăm Tây Tạng, khi trở
về nói mọi chuyện ở đó đều tốt đẹp. Họ nói thật qua những điều dàn dựng
và được phép cho thấy. Và bao giờ cũng vậy, những điều cho thấy ấy là
một sự dối trá trắng trợn.
TÂY TẠNG VÀ BÀI HỌC AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ
Trong khoảng hơn 20 năm từ 1995, kể từ khi có mối quan tâm về con Sông Mekong dài hơn 4,800 km ấy, về phương diện địa dư chính trị/ geopolitics,
người viết luôn luôn xem Tây Tạng như một quốc gia, và con Sông Mekong
chảy qua 7 quốc gia – thay vì 6. Nếu không kể Tây Tạng như một quốc gia
đầu nguồn, một cách vô thức, cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên hợp thức hoá
dã tâm của Bắc Kinh muốn xoá Tây Tạng trên bản đồ thế giới.
Trong
buổi lễ trao Giải thưởng Nhân quyền Robert F. Kennedy ngày 9 tháng 11
năm 1998 tại Đại Học Georgetown, Đức Dalai Lama tỏ ý ao ước được viếng
thăm Việt Nam năm 2000. Điều đặc biệt hơn nữa là Đức Dalai Lama còn có
đề nghị với các học giả Việt Nam hãy cung cấp cho các nhà sử học Tây
Tạng những sử liệu liên quan tới mối quan hệ giữa Việt Nam – Trung Hoa
và Việt Nam – Tây Tạng.
Và ai cũng hiểu rằng Đức Dalai Lama muốn nhân dân Tây Tạng tìm đến “Bài học Việt Nam”, làm thế nào dân tộc Việt vẫn lấy lại được nền tự chủ sau cả ngàn năm đã bị người Tàu đô hộ và quyết tâm đồng hóa. Đó như một “thông điệp hy vọng” của những người dân Tây Tạng đang bị Trung Quốc áp bức như hiện nay. (4)
Nhưng
cũng để thấy ngay một khác biệt sâu xa giữa hai quốc gia Việt Nam và
Tây Tạng. Trong hơn một ngàn năm bị đô hộ ấy, Trung Hoa chưa có nạn nhân
mãn, Việt Nam vẫn là xứ xa xôi còn bị coi là man di chưa xuống xa tới
Đồng Bằng Sông Cửu Long, chưa phải đối đầu với “chính sách tàm thực di dân Hán hóa”như
thảm trạng hiện nay của Tây Tạng, khiến dân Tây Tạng đang mau chóng trở
thành thiểu số trong biển người Hán ngay trên chính quê hương của họ.
Với chiêu bài dân chủ nhân danh quyền tự quyết, nếu có một cuộc trưng
cầu dân ý diễn ra trên đất nước Tây Tạng do Bắc Kinh chủ xướng, thì đó
là một “cuộc tự sát” mà không một người dân Tây Tạng nào có thể ngây thơ
chấp nhận.
Đã
16 năm kể từ năm 2000, Đức Dalai Lama năm nay cũng đã hơn 81 tuổi, và
không có cuộc viếng thăm nào của Đức Dalai Lama tới Việt Nam. Chấp nhận
hay không cuộc viếng thăm ấy là một thử thách can đảm đối với nhà cầm
quyền Cộng sản Hà Nội. Đó cũng là thước đo mức tự chủ của Việt Nam đối
với Trung Quốc.
TÂY TẠNG MẠCH SỐNG CỦA CHÂU Á
Các con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng. (2)
Phía
tây, gần rặng núi Kailash là hai con Sông Indus và Sutlej chảy về hướng
tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ
Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi.
Phía nam là con Sông Yarlung Tsangpo hay “nguồn tinh khiết” còn được mệnh danh là “con sông cao nhất thế giới”,
với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan
và Bangladesh, con sông mang tên Brahmaputra trước khi đổ vào Vịnh
Bengal, thuộc Ấn Độ Dương.
Phía
đông là khởi nguồn của các con sông lớn khác: Sông Dương Tử 6,500 km
dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung
Hoa tới Thượng Hải, còn Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi sang đông tới
Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa.
Phía
nam là hai con Sông Irrawaddy và Salween chảy xuống Miến Điện theo
hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman, những con đập thuỷ điện
Made-in China nay đang bắt đầu xiềng xích và huỷ hoại hệ sinh thái của
hai con sông Miến Điện này.Hình 5: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, Palgrave MacMillan 2014
Riêng con Sông Mekong dài hơn 4,800 km, mang nhiều tên khác nhau, bắt nguồn từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá,” tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lancang Jiang “con sông xanh cuộn sóng,” qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ,” xuống Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn” cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long “chín con rồng” với hai nhánh chính là Sông Tiền và Sông Hậu đổ ra Biển Đông bằng chín cửa sông, và nay chỉ còn bảy.
Cũng
để thấy một con Sông Mekong hoang dã không còn nữa khi 6 con đập dòng
chính khổng lồ Vân Nam đã hoàn tất, và 12 con đập hạ lưu Lào và Cam Bốt
đang lần lượt được triển khai, cùng với những kế hoạch thuỷ lợi nguy
hiểm là chuyển dòng lấy nước trên suốt chiều dài con Sông Mekong. Hậu
quả là sự suy thoái của toàn thể hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và
Đồng Bằng Sông Cửu Long thì khô hạn, nhiễm mặn và đang chết dần.
TIẾNG NÓI BẢO VỆ MÔI SINH
Đức
Dalai Lama không chỉ là vị lãnh đạo tinh thần của dân Tây Tạng, ông còn
là tiếng nói của “từ tâm” luôn luôn đấu tranh cho nhân quyền và bảo vệ
môi sinh cho toàn hành tinh này.
Với quốc gia Tây Tạng, Đức Dalai Lama đã giành ưu tiên cho bảo vệ môi sinh thay vì thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng.
“Lịch
trình chính trị có thể hoãn lại 5 – 10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần
tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối
băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự
án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi.”
Đức
Dalai Lama đã nói với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy Roemer như vậy trong một
gặp gỡ ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8, 2009. Nguồn: Wikileaks
Cables, the Guardian 10-8-2009
Từ
trên đầu nguồn, những con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc phá huỷ
một cách toàn diện và có hệ thống: với khí thải từ các nhà máy gây hiệu
ứng nhà kính khiến khối băng tuyết đang tan rã, rồi nạn phá rừng tự sát /
suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô,
tàn phá sinh cảnh, gây ô nhiễm các nguồn nước; những con sông trên Cao
nguyên Tây Tạng cũng đang bị Trung Quốc xiềng xích bởi những con đập
thuỷ điện và người dân Tây Tạng thì bị đuổi ra khỏi vùng đất đang sinh
sống của họ.
Hình 6: Hâm Nóng Toàn Cầu trên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, MacMillan 2014
Hoa
Lục xác nhận là sẽ xây các con đập lớn trên thượng nguồn Sông Yarlung
Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông ấy chảy sang Ấn Độ, Bhutan và
Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu cư
dân của 3 quốc gia này.
Giới
chức Hoa Lục cho biết họ sẽ còn xây thêm những con đập khác giữa các
quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những con
đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp
(Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Nguồn năng
lượng mới này tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ
lượng dầu khí trên Biển Đông. Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn
Thủy điện Trung Quốc (China Hydropower Engineering Consulting Group)
nhận định: “Tây Tạng là nguồn dự trữ thủy điện lớn nhất so với các tỉnh
khác của Trung Quốc. Chuyển điện từ Tây Tạng sang các tỉnh miền Đông sẽ
giải quyết vấn đề thiếu năng lượng của Trung Quốc”.
Anant
Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho rằng kế hoạch xây đập
tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc — thực ra
là trong lãnh thổ quốc gia Tây Tạng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác hại tới
mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên so
sánh:
“Ấn
Độ bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Tsangpo- Brahmaputra,
cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đối
với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn Sông Lancang – Mekong”.Hình 7: Cứu Tây Tạng là cứu mạch sống Châu Á. Nguồn: International Campaign for Tibet
Cho
dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương nhưng Đức Dalai
Lama cũng rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại. Ông đề cập
tới vấn đề môi sinh với một tầm nhìn xa và trong mối tương quan toàn
cầu và luôn luôn muốn “giữ xanh” hành tinh này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [06.05.1986]:
“Hòa
bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt động của
con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên
nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham
lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này… Chúng ta dễ
dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng
ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn
đạo đức là phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có
trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau.”
NGÔ THẾ VINH
California, ngày 11.01.2017
_____
Tham khảo:
1/ Freedom in Exile; The Autobiography of The Dalai Lama. Tenzin Gyatso, Hodder & Stoughton Ltd, London, 1990.
2/
Meltdown in Tibet: China’s Reckless Destruction of Ecosystems from the
Highlands of Tibet to the Deltas of Asia. Michael Buckley. Palgrave
MacMillan, New York, 2014
3/ Global Ecology and the Made in China Dams; Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 2010; http://vietecology.org/Article.aspx/Article/62
4/ The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea in Turmoil. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Press, Người Việt Books, Nxb Giấy Vụn 2016.
No comments:
Post a Comment