Wednesday, December 7, 2016

Thanh Trang: Duyên Thề


“Ðàng sau bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng có cái mà tôi cho là quan trọng hơn cả: con người. Bởi đàng sau những bài hát toàn là những mẩu đời, những tình người có thật. Ai khác ra sao tôi không biết, nhưng riêng tôi khi viết bài hát, không có lời lẽ nào thuộc dạng hư cấu, vẽ vời hay tưởng tượng.” – Thanh Trang

 

duyen-the-1_zpsxjn5yrq4.jpg

 

duyen-the-2_zpsyh8logbk.jpg

 

duyen-the-3_zpsr4pjasms.jpg

 

duyen-the-4_zps1cjl9sdx.jpg

 

Duyên Thề – Sáng Tác: Thanh Trang

Trình Bày: Thái Thanh

 

Mời đọc thêm:

 

1/

Tiểu sử của Nhạc Sĩ Thanh Trang

(Nguồn: http://cothommagazine.com)

• Tên thật: Nguyễn Thanh Trang
• Sinh năm 1942
• Nguyên quán: Thái Hà Ấp, Hà Nội, vào Nam năm lên 8 (1950) do thân phụ thay đổi nhiệm sở.
• Tiểu học: trường “Jaureguiberry” (sau 1956 đổi thành “St-Exupery”) trên đường “Thevenet” (sau đổi thành đường Tú Xương, con đường yên tĩnh, có những hàng cây thật đẹp, nằm sâu trong ký ức cậu học trò nhỏ, sau này sẽ làm nền cho bài hát “Những con đường thành phố tôi yêu”.)
• Trung học: Lycée Chasseloup Laubat (sau đổi tên ra “Jean Jacques Rousseau”), tốt nghiệp Trung Học ban “Sciences Expérimentales”.
• Vào Ðại Học Luật Khoa năm 1961. (Bài hát “Duyên Thề” viết khi ở năm thứ 2 Luật Khoa).
• Tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa năm 1963. Xong Cao học Kinh Tế năm 1966. Thời gian sinh viên, cộng tác với Nhật Báo “Tự Do” và một số nhật báo, tạp chí văn học khác; bút hiệu “Thanh Nguyễn” (bút hiệu sau nay vẫn tiếp tục xử dụng trên các nhật báo ở Nam Cali như Người Việt, Viễn Ðông, hoặc các Tạp chí Thế kỷ 21, Văn Học, Hợp Lưu…)
• Nhập ngũ năm 1968 (cùng lượt với Lê Tất Ðiều, Dương Kiền, Dương Cự v.v..).
• Rời Thủ Ðức, cuối năm 1968 lên giảng dạy Luật và Kinh Tế tại trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt (những bài “Tình Khúc Mùa Ðông” và “Huyền” viết vào thời điểm này).
• Cuối 1969, du học tại Hoa Kỳ môn “Development Economics”, Ðại học Vanderbilt tại Nashville, Tennessee (Luận án tốt nghiệp: “The absorptive capacity of Foreign Aid”)
• Trở về nước năm 1973, tiếp tục giảng dạy Kinh Tế ở Võ Bị Quốc Gia và Viện Đại Học Đà Lạt (Phân Khoa “Chính Trị Kinh Doanh”) cho đến tháng Tư năm 1975 khi đơn vị di tản về Sài Gòn. Bị đưa vào trại tập trung của Cộng Sản từ sau ngày Việt Nam Cộng Hòa thất thủ cho đến năm 1982.

ThanhTrang-NhaTrang86.jpg

(Nha Trang 1986)
• Tái định cư tại Hoa Kỳ vào giữa năm 1990 theo diện “Political Refugee”. Hiện cư ngụ tại Covina, California.

 

2/

Trịnh Thanh Thủy phỏng vấn Thanh Trang, người nhạc sĩ của dòng nhạc tiền chiến cuối

 

Tôi có người bạn nhỏ tuổi độ hai mươi, sống trong nước ngày hôm nay, mà lại rất yêu mến nhạc tiền chiến. Cậu hay sưu tầm và tìm nghe những tình khúc nhẹ nhàng, êm ả, trong sáng của những tháng ngày xưa cũ. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy cậu khác hẳn bạn bè đồng trang lứa, những người trẻ chạy theo mốt nhạc thời trang của dòng nhạc lai Hàn, lai Tàu, pop hoặc rap thời đại. Cậu làm tôi nhớ đến một nhạc sĩ tôi quen đã lâu, người lớn lên vào thập niên 60 cũng rất yêu dòng nhạc tiền chiến. Đó là nhạc sĩ Thanh Trang với hai ca khúc nổi bật nhất của ông, “Duyên Thề” và “Tình khúc mùa đông”.

 

 

Bài hát đầu tiên “Duyên Thề” ông sáng tác vào năm 20 tuổi với giai điệu dìu dặt, lãng đãng.

 

Có người bảo nghe như nhạc thánh ca. “Một vì sao sáng trong đêm lặng lẽ, nhạc buồn xa vắng, mênh mông trần thế, ánh mắt sáng ngời, lòng trời u tối không gian xa vời…”. Ca từ đẹp, chất chứa cảm xúc lao xao, nhớ nhung, tha thiết. Trong khi tiếng hát Anh Ngọc hay Tuấn Ngọc đã “Mắt đã một chiều thu hoen lệ sầu …ru hồn người đắm say” hay “ Anh lãng du đêm dài cùng khói mây” với ca khúc * “Tình khúc mùa đông” của ông sáng tác vào năm 1968, thì cái nhan đề bài này bị người ta đổi thành “Tiếc thu”.

 

TinhKhucMuaDong_zpsoxdtecwv.jpg

 

Tình khúc mùa đông

Trình bày: Thanh Lan

 

Tình cờ nó trùng tên với bài “Tiếc thu” của Hoàng Dương. Sau đính chính mãi “Tình khúc mùa đông” mới được người ta ghi đúng như nhan đề nguyên thủy. Ông còn nhiều bài hát nổi tiếng khác được sáng tác trước và sau 1975.

 

Thập niên 1960, của miền Nam Việt nam là thời bắt đầu hưng thịnh của nhạc vàng. Thời của những dòng nhạc mới khai sinh với những ca khúc đầu tay của Lê Uyên Phương(Buồn đến bao giờ/1960), Từ Công Phụng (Bây giờ tháng mấy/1960), Ngô Thụy Miên (Chiều nay không có em/1963), Vũ Thành An( Tình Khúc Thứ Nhất/ 1965),Trịnh Công Sơn (Ca khúc TCS/1967). Chen lẫn vào đấy, dòng nhạc mang âm hưởng tiền chiến của Thanh Trang cũng buông hứng, khơi dòng và êm đềm chảy.

 

Trịnh Thanh Thủy: Anh bắt đầu đến với âm nhạc như thế nào?

 

Thanh Trang: Vốn đam mê âm nhạc, năm 14 tuổi tôi học guitar với nhạc sĩ Vĩnh Lợi. Đời thầy gian khổ lắm. Thầy có bài hát duy nhất, lời của Nguyễn Thành Vinh, đó là bài “Luyến quê”. Thưở ấy, tôi học trường Tây, nên hay mua sách nhạc Pháp về nghiên cứu thêm về nhạc lý và kỹ thuật sáng tác. Khi có đủ căn bản, tôi bắt đầu viết ca khúc đầu tay “Duyên Thề”. Xong, tôi tìm nhạc sĩ Phạm Duy xin thỉnh ý về bài hát mình vừa làm. Nghe xong nhạc sĩ Phạm Duy nói: “Đây là Hà Nội của mình đây!”. Ông thêm “Các cậu làm nhạc thế này thì anh còn gì để chỉ dạy cho các cậu nữa”. Hôm sau ông đưa bài “Duyên Thề” cho Kim Tước hát lần đầu trong ban Hoa Xuân. Trong thời gian du học ở Mỹ, tôi có học thêm về phối âm và sáng tác ở đại học Peabody ở Nashville, Tennessee là thủ đô lừng danh, cái nôi của country music, Hoa Kỳ.

 

TTT: Xin cho biết quá trình sáng tác một ca khúc của anh.

 

TT: Trước hết phải có hứng và có đề tài mình muốn nói. Tôi thường viết về một kỷ niệm, một buổi chiều, mùa thu, xuân, hay hạ, hoặc một chuyện tình buồn, vui. Đó là cái ý. Sau tới giai điệu sẽ được thể hiện như thế nào. Nói đến một nhạc phẩm phải nhắc đến hai phần chính là giai điệu và ca từ. Thời đó, từ 1955 trở đi có một ca sĩ kiêm nhạc sĩ Pháp là George Brassens và một người nữa ngồi xuống định nghĩa thế nào là một bài hát. Ông Brassens cho rằng, trong 1 bài hát giai điệu là chính, còn lời là phụ. Còn người kia thì ngược lại. Theo tôi khi làm 1 bài hát, cần có 1 giai điệu hay để người nghe thích nhớ và hát. Được điều đó rồi, ca từ cũng phải hay và khớp với giai điệu cho người nghe dễ nhớ. Như thế ca khúc mới dễ đi vào lòng người. Nói đến người nghe. Một người nghe có trình độ hiểu biết về âm nhạc, họ để ý nghe rất kỹ nhất là giai điệu. Còn người không rành rẽ họ chỉ cần nghe lời. Nếu lời đúng tâm trạng họ thì họ thích và hát tới hát lui, lúc ấy âm nhạc chẳng có nghĩa lý gì đối với họ cả. Thành ra những tác phẩm nào chiều theo thị hiếu quần chúng có đau khổ, nghịch cảnh, lừa dối, phản bội, lấy được nhiều nước mắt thì được nhiều người ưa chuộng.

 

thanh-trang3.jpg?w=300&h=200

 

Khi tôi sáng tác, tôi viết với cảm xúc thực. Tất cả những bài hát của tôi bao giờ cũng có cái lõi của cuộc sống thực, không có hư cấu. Ví dụ cụ thể như bài hát tôi viết cho ca sĩ Anh Ngọc “Một đời tôi hát”. Hôm Anh Ngọc qua Cali, tôi đi thăm ông và trên đường về một ý tưởng chợt đến với tôi “Người ca sĩ hát cả đời những bài tình ca cho công chúng nghe, nhưng chính bản thân họ và bài hát có liên hệ gì nhau không?” Thế là tôi viết: “Một đời tôi hát những bài tình ca cho người, một đời tôi hát những lời buồn vui cho đời” . Tôi quen Anh Ngọc lâu, hiểu và biết cuộc đời thật của ông nên tôi sống với tâm trạng của ông, xúc động và viết bài ấy cho ông chứ không phải thương vay khóc mướn.

 

TTT: Theo anh, thế nào là một bài hát hay?

 

TT: Một bài thơ hay qua thời gian, 10 năm, 100 năm vẫn hay, vẫn còn giá trị như Kiều chẳng hạn. Một ca khúc cũng vậy, giai điệu, ca từ không cần bí hiểm hay sáo rỗng mà gần với lòng người. Tuy nhiên chính vì gần lòng người mà định nghĩa này là một con dao hai lưỡi. Vấn đề nằm ở chỗ, người là người nào? Thí dụ một người có trình độ âm nhạc cao và kiến thức rộng nghe một ca khúc hợp với trình độ của họ, họ sẽ thấy hay và thích nó. Ngược lại, người có trình độ thấp hơn sẽ nghiêng về phía những nhạc phẩm được viết dễ hiểu, hợp với kiến thức thấp hơn của họ. Vì thế sự hay hoặc dở tùy thuộc vào trình độ và kiến thức thẩm âm của người nghe.

 

Ví dụ ngày nay ở Hoa Kỳ, thanh thiếu niên trẻ rất thích nhạc Rap. Nhạc Rap xuất xứ từ người da đen. Ray Charles là một nhạc sĩ Pop Music. Khi người ta phỏng vấn ông cách đây mấy năm khi ông còn sống về nhạc Rap thì ông bảo “Rap là thứ rác rưởi”. Nếu bảo rằng Rap là rác rưởi, tại sao biết bao nhiêu người trẻ lại thích. Khỏi cần trả lời vì “Ngưu tìm ngưu, mã tìm mã”. Do đó cái định nghĩa về cái hay của tôi rất nguy hiểm. Nếu nói một tác phẩm để đời, ta sẽ nói đến để đời là đời nào. Thời dân trí cao như thời xưa ở VN, người nghe nhạc phần lớn là người có học, khi đó tân nhạc chưa phổ biến, mấy ai có tiền mua nổi cái radio, toàn người có tiền và trình độ cao nghe nhạc. Do đó nếu người nghe nhạc thuộc giai tầng xã hội cao, gìn giữ được các tác phẩm để đời giá trị, nó sẽ còn mãi. Ngược lại, nếu giai tầng thấp ưa thích những nhạc phẩm bình dân thì tác phẩm để đời chỉ toàn là rác rưởi. Các thanh niên trẻ bây giờ chạy theo thời trang thích cái gì đơn giản, dễ hiểu, không cần sâu sắc, ý nhị như xưa. Có thể vì kỹ thuật càng cao, tâm hồn càng nhỏ lại, xã hội trọng vật chất, tinh thần càng teo tóp và biến mất. Vì thế, nếu dòng nhạc tiền chiến có phai đi trong lòng người, tôi không thấy thắc mắc gì cả, do mọi sự đều theo luật biến thiên của vũ trụ. Mỗi thời có một lối suy nghĩ, xu hướng, cung cách nghe nhạc khác nhau, như lẽ tự nhiên của Dịch, của trời đất.

 

TTT: Theo anh, thế nào là một nhạc sĩ có thực tài?

 

TT: Một nhạc sĩ có thực tài là nhạc sĩ có các tác phẩm để đời hay và có giá trị sống mãi theo thời gian, lâu mà vẫn còn người ưa thích, như tôi đã nói bên trên. Công chúng nghe mãi nhạc phẩm của họ mà không biết, cũng như không cần biết tác giả là ai. Tỷ như bài “Ai về sông tương” của Thông Đạt, lên mạng thấy có 49 ngàn người nghe. Không ai biết Thông Đạt và Văn Giảng là ai, trong khi hai ông là một. Nhạc sĩ Thông Đạt đã dùng tên này cho những bài tình ca như “Ai về Sông Tương”, “Đôi mắt Huyền”..v.v..Tên Văn Giảng ông dùng cho các ca khúc quân hành như: Lục Quân Việt Nam” (Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn), Thúc Quân, Đêm Mê Linh..v..v..

 

Nếu chúng ta để ý, ở hải ngoại, các show ca nhạc hay các chương trình TV phát sóng, ngay cả trong nước, phần lớn các ca sĩ đều hát lại nhạc vàng trước 75 hay nhạc tiền chiến. Loại nhạc mà ngày xưa chúng ta vẫn nghe. Ai đã làm ra những ca khúc giá trị sống mãi như vậy, họ là những Nguyễn Văn Khánh, Hoàng Giác, Tô Vũ , Đoàn Chuẩn, Vũ Thành, Hoàng Trọng…v..v..

 

Hơn nữa, theo tôi quan niệm “Hữu xạ tự nhiên hương” tức “Hay không cần quảng cáo” vẫn đúng. Ngày nay người ta nhờ kỹ thuật điện toán, internet để quảng cáo cho một ca sĩ hay ca khúc, nhiều đến mức lạm dụng. Tỷ như các nhạc sĩ Tô Vũ, Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Từ Linh thời tiền chiến, thời mở đầu của nền tân nhạc VN, đâu có ai quảng cáo hay làm show cho họ. Cũng không có màn đưa tiền cho ca sĩ hát để quảng cáo cho một nhạc phẩm mới ra lò. Các nhạc sĩ ngày ấy phần lớn đều nghèo. Khán thính giả, nghe thấy hay thì thích. Chỉ có những năm gần cuối thập niên 60 mới có chuyện nhạc sĩ nhờ báo chí, truyền thông hay đưa tiền cho ca sĩ nổi tiếng hát để phổ biến và quảng cáo ca khúc ra công chúng.

 

TTT: Xin anh chia sẻ một vài kỷ niệm vui buồn từng có với bạn bè trong thế giới âm nhạc

 

TT: Trong văn nghệ có nhiều chuyện buồn cười như thế này.

 

Từ lâu tôi thích một bài hát “Hẹn Một Ngày Về của nhạc sĩ, giáo sư Lê Hữu Mục, “Về đây trong hoa lá/ Hỡi cánh chim giang-hồ..Huế, lờ lững dòng Hương/Năm tháng còn vương lời ai mong chờ..”.Người nghe tưởng trong đấy là một chuyện tình nhẹ nhàng diệu vợi. Ngày đó tôi viết cho tờ “Tự Do”, có một người quen với ông LHM làm chung. Tôi bèn hỏi nhỏ “Hồi trước ông LHM làm bài HMNV hay quá, ông ấy làm trong trường hợp nào vậy?”. Người ấy bảo “Tại ông ấy yêu một cô gái Huế và cô bảo, anh làm bài hát tặng em đi, em sẽ đền đáp tấm lòng anh, nên ông làm bài đó đấy”. Từ đó tôi đinh ninh, à ra là vậy. Sau có duyên gặp lại ông ở Mỹ, tôi đem chuyện xưa ra hỏi. Ông kể “À có gì đâu, hôm đấy, một ngày mùa hè ở Huế, đã bãi trường. Tôi có thằng bạn dạy Anh Văn ở Quốc Học về lại Hà Nội, tôi muốn về cùng mà không được. Chúng tôi hẹn nhau mùa thu sẽ gặp lại. Sau khi nó đi, ở Huế, trời nóng, ngồi trần xì cái quần đùi, nhìn xa xa là bờ sông Hương, tôi nhớ đến nó bèn sáng tác bài này.” Nghe xong tôi chưng hửng. Do vậy, giữa tâm trạng của người viết và người nghe có khi thật là khác nhau !!!

 

Cũng thời niên thíếu, tôi rất yêu thích những bài hát của cố nhạc sĩ Vũ Thành như “Nhặt cánh sao rơi”, “Nhớ bạn”.  Tôi để ý thấy trong những bài hát của mình,  ông Vũ Thành chả bao giờ dùng chữ “em” khi nói đến hình ảnh một người con gái.  Chữ “em” hiếm hoi mà ông xử dụng thì lại để chỉ … Hà Nội, trong bài “Giấc mơ hồi hương” ! Có lần ngồi chuyện vãn với ông, tôi có nêu nhận xét ấy.  Mẩu đối thọai như sau; (ông nói trước) :

– Cái bài “Nhặt cánh sao rơi “ ấy mà. .

– Dạ. . !

– Ngày ấy tôi có cô em họ. Chiều chiều hai anh em thường theo nhau ra bờ sông, ngồi trên bãi cát ven sông. Có lần, lúc đêm đã xuống, có một ánh sao đổi ngôi, tôi chỉ về hướng ấy và nói: “Người bên phương Tây họ bảo là khi thấy sao đổi ngôi, mình ước gì thì đuợc nấy “ ! Cô em của tôi nghe có vẻ tin tưởng lắm, nói: “Lần sau thấy sao đổi ngôi thì em sẽ ước! “ Tôi nói:”Ừ mà ước nhanh nhanh một chút,  bởi sao rơi thì nó nhanh lắm !” Mấy hôm sau, cũng một buổi chiều như thế, hai anh em lại ngồi trên bờ cát ở ven sông, và khi đêm vừa xuống thì chợt có ánh sao đổi ngôi! Cô em tôi lúc ấy thần hồn nát thần tính, buột miệng nói cái câu mà hàng ngày cô vẫn nói với ông Bố: “Mời Thầy xơi cơm!”

 

Kể xong thì cả ông lẫn tôi đều cười. Ông cười không dòn rã như tôi bởi đối với ông thì đấy là kỷ niệm cũ kỹ, và cười khẽ xong mấy tiếng thì vẻ mặt ông lại lắng xuống, xa vắng…

 

Tác giả không có kỷ niệm như ông đã kể thì lấy đâu ra bài “Nhặt cánh sao rơi “ ? Mà ai có yêu thích những bài hát của Vũ Thành, (ông viết chỉ dăm ba bài để lại với đời thôi), nhất là bài “Nhớ bạn”, thì nếu để ý sẽ thấy ngay là bóng dáng người thiếu nữ ông gọi bằng “bạn” trong những bài đó chẳng ai khác hơn là cái cô “Mời thầy xơi cơm” nọ!

 

Cảm ơn anh, Chúc anh sáng tác ngày càng sung mãn hơn nữa.

Trịnh Thanh Thủy

 

* Bài Viết về "Tình Khúc Mùa Đông" - Thanh Trang

Dalat 1968.
Rời khỏi quân Trường Thủ Đức vào giữa tháng 10, cuối tháng đó tôi đã có mặt ở Dalat để trình diện tại Trường Võ Bị Quốc Gia với chức vụ Giáo Sư Kinh Tế. Qua tháng 11, mùa Đông ở vùng này, người bạn gái tôi quen ở trường Luật từ nhiều năm trước, lúc bấy giờ làm việc tại Sài Gòn, cùng với cô em gái lên thăm tôi. Hai chị em ở lại đấy một tuần lễ. Thị Xã Dalat xem trên bản đồ thì với các vùng phụ cận, Ấp này Ấp nọ, trông có vẻ rộng, thế nhưng những khu vục có nhà cửa phố xá xây cất từ sang trọng đồ sộ cho đến “coi đuợc” về mặt xây cất thì cũng “vầy vậy thôi” chứ chả có thấm tháp gì so với Thị Xã Đà Nẵng chẳng hạn! Có những sĩ quan cao cấp trong QLVNCH lên đấy tham dự các lớp học quân sự chuyên ngành chừng dăm bữa nửa tháng đã có lần đùa với tôi rằng những khu phố chính của Dalat, xung quanh chợ Hòa Bình, chỉ cần hít một hơi thờ cho sâu, đi giáp hết một vòng rồi thì mới cần hít thở bình thường trở lại !

Kể như thế là để dẫn đến sự thể là khi người bạn gái của tôi lên thăm thì chúng tôi thường quanh quẩn nơi khu phố xá trên và dưới chợ Hòa Bình, rồi vài đọan quanh bờ hồ Xuân Hương, chỗ có ngôi nhà “Thủy Tạ”, rồi dắt nhau lên mấy ngọn đồi tiếp giáp với bờ hồ, từ đấy có thể ngó vè phía Giáo Hoàng Chủng Viện, Viện Đại Học Dalat và khu trường Yersin ở hướng Đông Bắc. Chẳng đi đâu xa hơn như Hồ Than Thở, “Thung Lũng Tình Yêu”, v.v… Phần vì trời lạnh, phần vì trong ngày có những giờ giấc tôi vẫn phải ra vào quân trường, và chủ yếu cũng vì khi người ta yêu nhau và có nhau bên cạnh thì hình như cũng chả cần đến ngọai cảnh cho lắm! Đi lang thang đây đó là khi người ta buồn tình đời gì đầy kìa!

Gần nhau như thế khoảng một tuần thì đến ngày tạm biệt. Cô ấy về lại Sài Gòn rồi thì tôi bắt đầu có những mối băn khoăn lớn. Quen biết, gần gụi với nhau đã nhiều năm thì tất nhiên cũng phải nghĩ đến chuyện chừng nào thì lấy nhau làm vợ làm chồng. Tôi là đàn ông con trai, năm ấy mới có hai mươi sáu thì chả có làm sao cả, thế nhưng người ta là con gái, mà con gái trên hai mươi lăm thì người ta rất “làm sao” từ cữ tuổi ấy trở đi!

 

Trước kia còn quanh quẩn với nhau ở Sài Gòn thì không nói làm gì, nhưng bây giờ đã là một sự “đôi ngả đôi ta” về mặt khoảng cách; và tôi lúc ấy cũng đã bắt đầu suy nghĩ cho thật kỹ về kế họach nhà trường gửi các Giáo Sư của mình đi ngọai quốc du học. Không phải tu nghiệp mà là du học, bởi trình độ giảng dạy cho Sinh Viên Sĩ Quan về mặt văn hóa trong bốn năm đã tương đuơng với bậc Đại Học trong toàn quốc.

Những ngày như thế thì chiều đến, sau giờ làm việc ở quân trường, tôi mới bắt đầu lang thang ở những quán cà-phê nổi tiếng phía bên trên khu chợ Hòa Bình! Bắt đầu lang thang đến khu nhà “Thủy Tạ” ven hồ. Bắt đầu lang thang lên mấy ngọn đồi giáp ranh với bờ hồ, nhìn ngang ngó ngửa giữa trời mây non nước trong tư thế “trầm ngâm”. Lúc bấy giờ đã qua tháng Mười Một trong năm. Có nghĩa là ban ngày trời dã lạnh thì đêm đến lại lạnh hơn, và sương sớm hay sương khuya cũng dày đặc hơn.

 

Một đêm như vậy, tôi trở về khu Cư Xá dành cho Sĩ Quan Độc thân là cái Khách Sạn Thủy Tiên II mà chính phủ đã trưng dụng! Người cùng phòng với tôi là một anh Kỹ Sư Điện mà trùng hợp thế nào trước đấy cùng chung Đại Đội với tôi ở Thủ Đức, cùng về trình diện một ngày với tôi ở quân trường, được bổ nhiệm làm Giáo Sư trong Khoa Điện, rồi cũng lại đuợc sắp xếp cho ở cùng phòng với tôi tại khu Cư Xá Sĩ Quan! Suốt mấy tuần liền anh ấy mất ngù triền miên. Hỏi lý do thì khai ra rằng “vì nhớ cô bồ ở Sài Gòn”. Tôi hỏi :”Thương nhau nhiều không ?” Đáp :”Tụi tôi thương nhau lắm! Trước sau gì cũng lấy nhau!” Tôi nói :”À, thương nhau và gắn bó với nhau cỡ đó rồi có mất ngủ thì ít ra cũng còn có lý“! Vậy thì nếu như anh bạn cùng phòng có mất ngủ vì nhớ người yêu thì riêng tôi lại chả có sao cả, tôi vẫn ngủ bình thường ! Bây giờ nhìn lại thì tôi mới sực nhớ ra là suốt một cuộc đời, dù trong hòan cảnh nào đi nữa tôi cũng không bị chứng mất ngủ. Kể cũng lạ! Có điều là khi nào “trâm ngâm” hay “tư lự” thì tôi “trầm ngâm”, “tư lự”. Nhưng bình thường ra thì tính tôi thích trào lộng. Một hôm như thế, tôi hỏi anh bạn cùng phòng :”Này ! Cậu thương cô bồ của cậu như thế! Nhưng cậu có chung tình với cô ấy không?” Đáp :”Chung chứ sao lại không chung?” Tôi hỏi:”Anh em đàn ông con trai với nhau tôi hỏi thật: Vậy chứ có bao giờ cậu nằm mơ thấy mình giao du thân mật với một người con gái khác hay không ?” Bấy giờ đến lượt anh ta trâm ngâm vài giây nhưng rồi gật gù, trả lời :”Cũng có!” Tôi nói :” ! Thế thì có khi nào cậu nghĩ rằng cô bồ mạ cậu thương nhớ đến mất ngủ hàng đêm thì có khi chính những đêm cậu mất ngủ cô ấy lại mơ dung dăng dung dẻ với một anh nào khác?”  Anh bạn cùng phòng nhìn tôi đăm đăm, nói hấp tâp :”Ờ nhỉ? Ờ nhỉ?. Rồi với nét mặt cau có:”Nhưng ông ăn nói cái kiểu ấy thì tôi lại càng thức trắng đêm thêm! “ Tôi đâm chột dạ vì hình như mình có sơ hở điều gì đấy cho nên vội vàng trấn an anh bạn :”Ấy chỉ là giả thuyết thôi cậu ạ! Miễn sau này người ta chịu lấy cậu là đuợc, còn họ có mơ thấy ai khác thì tốt hơn cả là mình cứ coi như không biết cho nó khỏe cái tâm thân!” Anh bạn lại càng cau có :”Đâu có đuợc!”

 

Không đầy nửa năm sau thì anh bạn ấy đuợc biệt phái trở về Sài Gòn. Tôi đi du học trở về nước vào năm 73, một buổi chiều đi ngang khu Bưu Điện Sài Gòn, thấy có ai đứng một bên đuờng kêu tên mình ơi ới. Hai bên cùng băng qua đuờng để tay bắt mặt mừng với nhau thì đấy không ai khác hơn anh bạn cùng phòng năm xưa như vừa mới kể. Người đi bên cạnh anh ấy mà anh ấy giới thiệu là vợ thì cũng không ai khác hơn cô gái mấy năm xưa khiến anh chàng mất ngủ triền miên ở Dalat! Trông mặt là tôi nhận ra liền, bởi anh chàng kia để hình cô nàng nơi bàn ngủ đầu giường tại căn phòng của khu Cư Xá Sĩ Quan độc thân của Trường Võ Bị Quốc gia khi xưa!

Anh Kỹ Sư tên Đức, người bạn tôi vừa kể ở trên là người đầu tiên nghe bài “Tình khúc mùa Đông” qua tiếng đàn ghi-ta của tôi ngày ấy. Một đêm, khoảng hai ba giờ sáng tôi chợt thức giấc, lấy giấy kẻ nhạc ra, bật đèn lên để viết các nốt nhạc cho đoạn giữa của bài hát. Hình như trong giấc ngủ thì tâm trí của con người ta vẫn tiếp tục làm việc. Trọn ngày hôm sau, dù là đi đâu hay đang làm gì thì đầu óc tôi cũng cứ quanh quẩn với phần lời hát. Khuya đến, tôi ngồi chép lại toàn bộ lời hát như trong ngày mình đã tạm coi như ưng ý. Xong rồi thì lôi đàn ra đàn từ đầu đến cuối để coi xem lời hát và giai điệu đi với nhau ra sao. Ở giường phía bên kia, anh bạn cùng phòng nằm nghiệng, một tay chống cằm, lắng nghe. Nghe xong thì anh ta lò dò buớc đến bên cạnh tôi, cầm bản nhạc lên đọc lời và yêu cầu tôi đàn lại cho anh ta nghe! Nghe xong anh ta kết luận :”Thế này thì ông lại càng làm tôi nhớ cô bồ của tôi thêm nữa! Ở chung phòng vói ông thật là tai họa !”

 

Cách đó ít ngày tôi gừi bài hát cho Mai Hương ở Sài Gòn. Mai Hương là người đầu tiên hát bài này trong ban nhạc của Nhật Trường bên Đài Quân Đội. Sau Mai Hương thì đến phiên Nhật Trường hát . Nhật Trường hát xong rồi thì tìm người liên lạc với tôi để xin đuợc xuất bản!

 

Ngày Nhật Trường lái chiếc xe “Simca 1000” đến tận nhà tôi ở ngôi biệt thự thuộc khu Anh Phú, trên đuờng đi Thủ Đức, để giao tận tay cho tôi mấy chục bản đặc biệt, để có dấu mộc và chữ ký của tác giả, thì ít hôm sau tôi đã lên máy bay Boeing rời khỏi nước, đi du học. Người vợ của tôi lúc ấy, và cả cho đên bây giờ, là nhân vật nữ trong bài “Tình khúc mùa Đông”.

Thanh Trang
Nam Cali, mùa Đông 2008

No comments: