Nhà
Việt Nam – Sáng Tác : Thẩm Oánh
Trình bày : Kim Tước - Quỳnh Giao - Quốc Anh - Mai Ngọc Khánh
http://cothommagazine.com//nhac1/ThamOanh/NhaVietNam-ThamOanh-DuyQuangQuynhGiaoQuocAnh.mp3
http://cothommagazine.com//nhac1/ThamOanh/NhaVietNam-ThamOanh-DuyQuangQuynhGiaoQuocAnh.mp3
NHẠC SĨ THẨM OÁNH (1916-1996)
MỘT ĐỜI CHO ÂM NHẠC
Nhạc sĩ Thẩm Oánh tên thực là Thẩm Ngọc Oánh, sinh năm 1916 tại Hà-Nội.
Học vỡ lòng với một thầy đồ tại nhà riêng. Thầy đồ này lại biết
chơi đàn Tầu nên cậu bé Thẩm Ngọc Oánh mê nhạc ngay từ hồi lên 6 tuổi.
Được khoảng 4 năm thì thầy đồ trở về quê vì tình hình chiến sự.
Thẩm Oánh đã học âm nhạc qua một số sách viết bằng tiếng Pháp. Và
khi học xong bậc trung học tại các trường Clémenceaux, Albert Sarraut va
Puginier thì Thẩm Oánh bắt đầu dậy nhạc từ năm 1934, khi mới 18 tuổi.
Thẩm Oánh sáng tác hơn 1,000 bản nhạc nhưng những bản đắc ý nhất, được phổ biến rộng rãi nhất không quá vài chục bài.
Nhạc của Thẩm Oánh có thể tóm tắt trong 4 đề tài:
– Nhạc anh hùng ca
– Nhạc Phật giáo
– Nhạc nhi đồng
– Nhạc tình cảm
Ngoài các thể loại trên, Thẩm Oánh đã viết 3 vở nhạc kịch: Quán Giang Hồ, Bá Nha-Tử Kỳ, Đoàn Kết Là Sức Mạnh.
Nhạc sĩ Thẩm Oánh còn cộng tác với các tạp chí Việt Báo, Tiểu
Thuyết Thứ Bẩy, Chủ bút nguyệt san Việt Nhạc; giữ các chức vụ Giám Đốc
Đài phát thanh Hà-Nội, Trưởng Ban Việt Nhạc, Giám đốc trường Ca Vũ Nhạc
Phổ Thông (thuộc Bộ Thông Tin và Thanh Niên), Phó
Hội Trưởng Việt Nam Nhạc Hội, dạy nhạc và ngọai ngữ tại một số trường
trung học.
Gia đình nhạc sĩ Thẩm Oánh sang Hoa Kỳ năm 1991. Đến tháng Tư năm
1993, Nhóm Trưng Vương Vùng Hoa Thịnh Đốn tổ chức “Đại Nhạc Hội 60 năm
Am Nhạc Thẩm Oánh” đã phát hành tuyển tập “Nhớ Nhung” để vinh danh một
nhạc sĩ đã tận tụy đóng góp cho nền tân nhạc
Việt Nam và tri ân một giáo sư đã giảng dậy âm nhạc trong nhiều năm tại
các trường Trưng Vương, Chu Văn An và Nguyễn Trãi. Đồng thời, cũng là để
lưu lại cho các thế hệ sau một số tác phẩm giá trị của bậc tiền bối.
Bút tích duy nhất của Thẩm Oánh mà chúng tôi có được là lời tâm sự của nhạc sĩ viết trong tuyển tập này, với tựa đề”Nhớ Nhung”.
Xin được trích vài đoạn:
“…Tâm tình đa cảm mang lại Nhớ Nhung. Gặp nhau đâu thấy thoáng chút
hương thơm quyện vào vành mũi, thấy mấy sợi tóc mây phơ phất tạt ngang
mày, thấy một nụ cười duyên bén tình say, một nét thuần dịu vụng về lộ
vẻ thơ ngây trong cử chỉ nhu hoà, duyên dáng…những
ấn tượng ấy, bảng lảng nhớ nhung, nhớ nhung đến “ngợp trời”, nhớ nhung
đến “gió trăng lạc lối”, và những sự “thấy” và “gặp” ấy kết thành ý nghĩ
mung lung để viết ra một số bài.”
“…Đến ‘Việt Nam hùng tiến” thì thực là “bộc phát”. Vỏn vẹn mươi
người hát chưa vững, thế mà ít lâu sau cả vùng, cả đoàn hát lên để dựng
cờ. Rồi phong trào đột khởi, lòng hăng say yêu nước đã thai nghén được
thêm “Việt Nam hùng tiến”,”Non Nước Việt Nam”,
“Nhà Việt Nam”, “Bài ca đoàn kết”, “Người Việt Nam xin đừng quên”,
“Người trai Việt nhớ chăng?”có thể vô duyên lúc đương thời nhưng hữu sự
về mai hậu…Kế tiếp là những chuyện tình xưa còn truyền khẩu lại cho tới
ngày nay, giúp cho tình nghĩa vợ chồng thêm đằm
thắm keo sơn, như “Vợ chồng Ngâu”, “Thiếu phụ Nam Xương”, “Nàng
Bân”…Rồi những bài ca lịch sử từ “Hùng Vương” tới ”Bắc Bình Vương”, và
“A Di Đà Phật”, “Trầm hoa hương ngát”, “Thập phương chúng sinh” cùng với
những bài ca lịch sử trên còn tồn tại lâu dài.
“Số bài còn lại đã dấu diếm gần nửa thế kỷ, cuốn gọn vào một sọt
giấy cũ nát, hầu như bỏ đi. Ném vào một góc tường mà mưa nắng đã làm ẩm
ướt và mục nát, thì mười phần nay chỉ còn non một nửa. Xếp lại từng
trang, đọc lại từng dòng, chấm lại từng nốt, mỗi
bài một nhạc đề, mỗi dòng một kiểu cách, thoáng hiện nếp “ngũ cung” đa
dạng, chuyển âm đột ngột, nhạc điệu ấy đã làm người nghe cảm xúc lúc ban
đầu. Đã muốn bỏ quên và chôn vùi theo thời gian, thì lại gặp cố tri
hằng mến nhau vì cảnh ngộ phũ phàng, những người
bạn cũ đã lưu vong nơi vùng đất hứa này, gợi ý cho sống lại thuở đương
thời cách biệt.
Nhạc tập này được ấn hành để đánh dấu một thời chìm nổi của cái ta vô vọng…”
CHÚNG TA BIẾT GÌ VỀ THẨM OÁNH?
Phải nói một cách thẳng thắn rằng: Hầu hết chúng ta không biết gì
về người nhạc sĩ tài hoa này cả. Cái tên “Thẩm Oánh” thì ai cũng nhớ,
một số nhạc phẩm của Thẩm Oánh thì ai cũng thuộc hoặc cũng đã nghe qua,
nhưng hỏi về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của
Thẩm Oánh thì ít người biết một cách rõ ràng.
Phần vì Thẩm Oánh thuộc lớp nhạc sĩ lão thành, tiền phong trong tân
nhạc nên phần đông người cùng trang lứa với nhạc sĩ nay đã ra người
thiên cổ. Phần khác, Thẩm Oánh là người tính tình nghiêm nghị, khép
kín, ít bạn cũng như ít tâm tình trò chuyện nên
ngay cả những người trong nhà cũng không mấy ai được Thẩm Oánh chia sẻ.
Thế nên, tìm hiểu về Thẩm Oánh là điều rất khó. Nhạc của Thẩm Oánh
lại không phải là loại nhạc để trình diễn, nên ít có ca sĩ nào dám hát
nhạc Thẩm Oánh trong một đại nhạc hội. Nét nhạc Thẩm Oánh có một sắc
thái, một phong thái riêng, có lẽ chỉ thích
hợp với một vài lớp người thưởng ngoạn mà thôi.
May thay, chúng ta còn có được một nhân chứng, người trong cùng
giới ca nhạc, rất có uy tín là nhạc sĩ Nguyễn Hiền, đã nhắc đến Thẩm
Oánh trong một bài ngắn nhưng đầy đủ khi người nhạc sĩ tiên phong, đa
tài này từ giã cõi đời ở tuổi 80.
Nguyễn Hiền viết:
“Tin nhạc sĩ Thẩm Oánh ra đi vĩnh viễn đối với chúng ta chỉ cách
vài tháng sau cái chết của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Văn Cao đã là một
mất mát lớn trong giới âm nhạc Việt Nam. Nếu lịch sử chỉ là sự tiếp nối
giữa các thế hệ, thì nhũng lớp người đi trước
luôn luôn cần được ghi nhận công lao xứng đáng với việc làm của họ qua
những đóng góp không nhỏ cho âm nhạc nước nhà trong suốt cuộc đời đã
qua.
Nói đến Thẩm Oánh, công lao ấy rất đáng kể nếu chúng ta quay về
những năm ở giữa thập niên 30, khi âm nhạc Việt Nam vừa xuất hiện lác
đác mới chỉ có vài bản nhạc. Lớp thanh niên lúc bấy giờ chỉ biết đến
những bài ca Pháp thịnh hành do danh ca Tino Rossi
trình bày qua đĩa nhựa phổ biến vào nước ta.
Chỉ nhớ là kỹ thuật điện ảnh lúc bấy giờ còn thô sơ với loại phim
câm chưa có âm thanh đi kèm. Cho đến năm 1936 mới bắt đầu xuất hiện
những cuốn phim có tiếng nói được quảng cáo ầm ĩ trên báo qua danh từ
“Cinéma Parlant”, lôi cuốn lớp thanh niên Việt Nam
thời đại.
Trong bối cảnh rất hạn chế ấy, nhạc sĩ Thẩm Oánh đã là người đi tiên phong, sáng tác nhạc với lời ca thuần túy Việt Nam.
Bản đầu tiên ông viết – nếu tôi không lầm – là bài “Có ai sang đò”,
thanh niên thiếu nữ chuyên tay nhau chép lại tập hát ở nhà, vì hồi đó
chưa có nhà xuất bản nào phát hành nhạc như sau này.
Ở Hà-Nội người ta biết đến tên ông cùng với Dương Thiệu Tước qua
bản nhạc đầu tiên “Tâm hồn anh tìm em” như một cặp bài trùng xuất hiện
trên sân khấu Nhà Hát Lớn những buổi trình diễn kịch nói rất hiếm hoi,
có xen kẽ một vài bài nhạc Việt Nam.
Hình ảnh hai nhạc sĩ Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước bận đồ Smoking
hay Spencer ra trước công chúng đã tượng trưng cho mẫu người thanh niên
hào hoa thời đại ở thành phố ngàn năm văn vật trong phong trào tài hoa
son trẻ giữa thập niên 30.
Ngoài việc đi tiên phong về viết nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Thẩm Oánh
còn là người đầu tiên đứng ra thành lập ban nhạc Tricéa qui tụ những tay
đàn xuất sắc như Lê Yên tác giả “Nghệ sĩ hành khúc”, “Ngựa phi đường
xa”, Lê Lôi, Dương Thiệu Tước, Vũ Khánh (anh
ruột Vũ Thành), Nguyễn văn Diệp (violon) và Nguyễn văn Hiếu (piano).
Vì say mê âm nhạc, Thẩm Oánh đã chọn con đường nghệ thuật thay vì
chạy theo khoa bảng như phần lớn thanh niên trong thời Pháp thuộc, chỉ
đua nhau học hành mong kiếm được mảnh bằng và địa vị cao sang trong xã
hội.
Ông đi vào nghiên cứu âm nhạc rất sớm cùng với Nguyễn Xuân Khoát,
Dương Thiệu Tước, đặc biệt chú trọng vào hệ thống ngũ âm (Pentatonic
System) của âm nhạc cổ truyền Việt Nam mà chúng ta thấy thể hiện luôn
luôn qua nét nhạc ông viết.
Người viết còn nhớ rõ, Thẩm Oánh có biệt tài ăn nói khúc chiết, dịu
dàng mỗi khi ông xuất hiện trước công chúng, đặc biệt dáng dấp trịnh
trọng, nghiêm chỉnh làm tăng thêm giá trị của những buổi tổ chức thời
tiền chiến.
Uy tín ông vang dội khắp nước và các nhân sĩ Nam Kỳ thời ấy đã mời
ông vào Saigon diễn thuyết về đề tài “Âm Nhạc Việt Nam” bằng tiếng Pháp
tại hội quán Samipic đường Galliéni (Trần Hưng Đạo sau này).
Xuất thân từ một gia đình thuộc danh gia vọng tộc Hà-Nội, ông sinh
năm 1916 (năm Bính Thìn), suốt cuộc đời đã chỉ hoạt động say mê trong
lĩnh vực âm nhạc và sau này trong ngành truyền thanh mà ông là một trong
số những người đứng ra sáng lập đài phát thanh
Hà-Nội tiếp thu từ tay người Pháp.
Ông cũng là người từng đứng ra cùng nhạc sĩ Nguyễn Văn Diệp tổ chức
phòng trà Quán Nghệ Sĩ ở Bờ Hồ Hà-Nội, một trong những phong trào đầu
tiên xuất hiện tại Hà-Nội năm 1945.
Ngoài ra, ông còn là giáo sư giảng dạy môn Pháp văn tại trường
trung học Duvillier phố hàng Đẫy, Hà-Nội và môn âm nhạc cho nhiều trường
học công lập, tư thục từ Hà-Nội vào đến Saigon trước năm 1975.
Là người tha thiết với đất nước dân tộc, Thẩm Oánh đã viết nhiều ca
khúc để đời như “Việt Nam Hùng Tiến” được dùng làm đài hiệu cho đài
phát thanh Hà-Nội và Saigon, “Nhà Việt nam”, “Trưng Nữ Vương”, “Chu Văn
An Hành Khúc”, “Thiếu Phụ Nam Xương”v.v…
Mỗi dịp đón xuân, người ta không thể quên bản “Xuân Về” mang nhiều
nét dân tộc ông viết năm 1939, đăng trong Ngày Nay số Xuân Kỷ Mùi do Tự
Lực Văn Đoàn xuất bản.
Năm 1949, khi tiếp thu đài phát thanh Hà-Nội, ông thành lập ban
Việt Nhạc qui tụ các ca nhạc sĩ thời đó như Minh Đỗ, Ngọc Bảo, Canh
Thân, Quách Đàm, Nguyễn Thiện Tơ, Vũ Khánh, Vũ Thành, Nguyễn Trí Trường,
Nguyễn trần Du, Nguyễn Hách Hiển và Nguyễn Nghĩa.
Điểm đặc biệt ở Thẩm Oánh là ông khiêm tốn, hoà đồng với tất cả anh
chị em trong giới âm nhạc và chẳng bao giờ thấy ông khoe khoang công
việc ông làm.
Năm 1961, tôi được vinh dự thay ông trong nhiệm vụ Chủ Sự Phòng Văn
Nghệ Nha Vô Tuyến Truyền Thanh Saigon. Trong buổi lễ bàn giao, trước
đông đủ anh em trưởng ban văn nghệ, ông tỏ vẻ cảm động khi tôi ca ngợi
những đóng góp của ông trong nền âm nhạc Việt
Nam. Ông cám ơn lúc tôi nhắc đến ông là người đã sửa lại bài quốc ca của
cả hai miền Nam Bắc, điều mà ít người biết.
Đúng như vậy, năm 1943 khi Lưu Hữu Phước viết bản “Tiếng Gọi Sinh
Viên” (Marche des Etudiants) còn là sinh viên Nha Khoa ở Hà-Nội, đã đưa
đến hỏi ý kiến nhạc sĩ Thẩm Oánh, Hội Trưởng Hội Khuyến Nhạc và ông đã
đề nghị sửa chữa một vài chỗ.
Rồi năm 1945, cũng ở cương vị đứng đầu Hội Khuyến Nhạc, chính Thẩm
Oánh đã đề nghị Văn Cao viết lại câu đầu trong nét nhạc “Tiến Quân Ca”
cho tiết tấu hùng mạnh hơn, khác hẳn nguyên bản in qua thạch bản phổ
biến từ chiến khu Việt Bắc.
Giai đoạn Thẩm Oánh sáng tác nhiều bản nhạc nhất phải nói là từ
1949 đến 1954, trong đó có “Nhớ Nhung”, “Toà Miếu Cổ”, “Bọt Bèo”, “Thiếu
Phụ Nam Xương” do các ca sĩ Minh Đỗ và Ngọc Bảo thu thanh trên đĩa nhựa
hãng Asia ở Saigon.
Sau 1975, tôi gặp ông có một lần duy nhất trong đám tang ông Vũ Quốc Thông ở Saigon.
Mới chỉ vài năm mọi người vui mừng đón nhận tin ông cùng phu nhân
(nữ nhạc sĩ Tô Anh Đào) đã sang Hoa Kỳ xum họp gia đình. Ngờ đâu tin như
sét đánh ngang tai, nhạc sĩ Thẩm Oánh đã vội ra đi ở tuổi bát tuần.
Xin hương hồn anh nhận nơi đây lòng thành kính và tiếc thương của một người đi sau trong giới âm nhạc Việt Nam.
Vĩnh biệt nhạc sĩ đàn anh Thẩm Oánh”.
Nguyễn Hiền
No comments:
Post a Comment