Mậu-Tài Miên man một chút….
Gởi các anh chị em thôn Mậu ở phương xa .
Tôi không là nông dân nhưng có nhiều năm chân lấm tay bùn, bán lưng cho trời bán mặt cho đất vì may mắn có năm ba chữ được duyên làm thầy giáo trường làng trường xã! Ở trong tôi có chất nông dân vừa anh giáo làng.
Cánh đồng thôn Mậu tôi chưa biết nhiều mà cũng đếm và kể được mươi lăm các xứ đạt ruộng làng ta: nào Cồn Cạn, Cồn Dạn, Cồn Khê, Cồn Cây, Vĩnh Khánh, Trương Mười, Cồn Thuế, Cành Lý đến Đạt Hạ, Đạt Thượng, Biền Bỷ… tận vùng ruộng sâu như Ô Vụng Trâu, Ô Cây Bường, Ô Cây Tra…để mỗi lần đi lại trên cánh đồng này nhiều cảm xúc cứ chảy mãi trong tôi.
Ngày tôi còn bé tí tẹo theo anh đi “giữ đồng” cái thời mà sau này học lịch sử biết thêm tục lệ thời nông nghiệp tiểu nông trồng gì ăn đấy: để bảo vệ thành quả cây trồng vật nuôi ở thôn Mậu ta có lệ làng đấu “ngoạt”; vào vụ thu hoạch như vùng Triều Bắc với khoai, sắn, đậu mè… chủ hộ thường hay đếm từng bước chân đất hay vài đòn gánh, đòn sóc để lại cho chủ “dự đồng”! Nơi nào trồng lúa chủ ruộng gặt xong lật đựng một vài bó gọi là của công giữ đồng. Cứ như thế là có công ta công người. Nhớ những cái chòi tranh trên những mô đất cao của mấy chủ giữ đồng, gom từng bó lúa của một ngoạt đồng chất đầy trong trại; cái mùi lúa, mùi rơm cứ lởn vởn trong hồn con trẻ! Giờ nhìn đàn vịt lội cái mùi tanh tanh cùng sự vẫy vùng của hàng trăm con đà, con đen giữa dòng hói Cân mà nhớ chuyện xưa: con hói nhỏ với cỏ lùng, cỏ lát nước trong lẫn nước đục có biết bao nhiêu là cá để trẻ thơ làng ta đi câu: vai mang oai- sôn, tay cầm cần câu chân lấm bùn, đầu đội chiếc nón le te, từ hói này sang hói khác quăng mồi chờ phao chìm là giật kéo cá bỏ vào oai.
Kìa những cột đá nằm trên bờ đập là mốc giới của ruộng Tự Điền: đất của Phủ Phòng vua chúa. Rải rác đây đó nhiều ngôi mộ ở Phá, Đạt Thượng, Cồn Nít, Cồn Khê… là của những người có công “mở cõi”. Thì ra ở đâu vẫn vậy, có dịp đi trên đường thiên lý đặc biệt là đồng bằng sông Hồng ở giữa cánh đồng thênh thang kia cũng có những ngôi mộ như chơ vơ với cái rì rào của lúa, của mây trời. Ở giữa hói Cân bây giờ trạm bơm khá hiện đại nhưng ngày xưa là cống Cồn Cây vừa ngăn úng chống hạn, lại nhớ các anh chị sau ngày giải phóng “lở eng”, “lở thằng” bỏ bút nghiêng ở công sở về làm nông dân vất vả muôn chiều, tình cờ gặp các anh chị nông dân bất đắc dĩ lòng xao xuyến làm sao! Ngồi bên bờ hói ánh mắt xa xăm với gánh mạ, luống cày, ruộng bùn lấm trái chân thon; nhìn xa xa lũy tre làng yên ả nhưng khó khăn chồng chất.
Nhìn phía đông hơi xa là bức Ba Mậu ruộng thề khó quên… nhớ một kỳ tích lịch sử tranh chấp ruộng ta, ruộng người. Trước làng ta nhìn bên kia hói có mấy bức ruộng người dân làng Thanh nói ruộng “bánh bèo” mà nghe đâu ruộng ở làng Vĩnh Lại, Vĩnh Lộc với bức ruộng Cỏ Vịt, Cỏ Voi cũng có chuyện lao đòn gánh đo ruộng để đổi mấy nia bánh bèo xa xăm hư thực thực hư!
Có dịp đi bên bờ hói Đạt Hạ nhìn qua phía đập Đuồi những luống cỏ xanh mơn mởn tai tôi bỗng “nhớ nghe” âm vang tiếng mõ của “xâu làng”:
– Cấm trâu ăn kẹ, cấm nghé ăn dường, cấm bờ mương bợt hói.
Ờ, cái thời xa xưa phong kiến nặng nề ấy có những tục lệ quy cũ làm sao. Các cụ nhà ta thời xưa đã từng cho thịt trâu bò khi những công cụ cày bừa kia phạm hương ước làng xã dù con vật đó của bất cứ ai.
Trong Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An nhuận sắc năm 1555 có đoạn nói sông Hoài Tài khi viết về chùa Sùng Hóa… Quê mình cứ quen gọi hói trước để phân biệt với hói sau. Hói vì dòng nước nhỏ đôi bờ vẻn vẹn e không quá mười mét! Và hói trước đây là sông Hoài Tài. Còn hoái sau rộng hơn nhiều lần, nơi cách ngăn ruộng đồng với nghĩa địa và địa bàn cư trú của dân làng. Nhớ lại cách đây hơn bốn mươi năm một lũy tre làng xanh mướt kéo dài trên km như chắn gió cho cộng đồng sinh sống. Con dân làng quen gọi hàng tre xâu…những hàng tre dày đặc cành nọ đan xen cành kia có những ngọn tre uốn cong là là trên mặt nước trông như một bức tranh quê đúng nghĩa: chim chóc quần tụ đủ loài nào bìm bịp, nào sáo, nào cà cưởng, rột rột với những tổ chim đan lát công phu tinh tế… ngày ấy bọn trẻ con lấy tổ chim rột rột làm giày để đi cho vui chân. Trên trời là thế còn dưới bờ nước sát mép hói người ta khoanh vùng rào dậu kỹ để trồng rau muống, có cả những chiếc đìa để mươi ngày nửa tháng tát nước bắt cá: những con cá lóc (tràu), cá rô, cá thia tho, phát lát… to đùng là nguồn thực phẩm phong phú đa dạng!
Đoạn này phải nói đến chuyện đi rớ tôm, rớ tép của người làng ta vì hói hà, ruộng sâu, ruộng cạn, ô bàu bao la thế thì tôm tép cũng hằng hà : đấy là nguồn sống của đa phần cư dân thôn Mậu: đêm hôm khuya khoắc với chiếc ghe đan nhỏ nhắn cùng ngọn đèn dầu leo lét với vài ba chục chiếc rớ bao tải, gói thêm miếng trầu, gói thuốc làm bạn đồng hành lặng lẻ thâu đêm kiếm sống qua ngày. Nghe mẹ tôi kể cũng trong những lần đi rớ vì màn đêm giá lạnh, tê buốt tâm can cùng cái tối đêm bơ vơ nên ghe phải va đụng những nò sáo, lùng lát làm mất thăng bằng, tròng trành chiếc ghe lật chìm trong làn nước lạnh lẻo: những cô chú tôm tép trở lại hói hà; hoàng hôn hôm sau phải tốn bảy vắt cơm cùng quả trứng vịt cộng thêm mấy cây nhang để gọi ba hồn bảy vía về ! Xin chia sẻ với bạn bè người đã khuất cùng những người thân đã có duyên bay xa xa đâu đó!
Bên này là hang tre bên kia là nghĩa địa nơi lòng người lòng đất hiểu thông nhau, một dãi đất mấp mô mồ mả đan xen như người sống quần cư với nhau! Bởi vậy bây giờ đất chật người đông thì việc tống tang người quá cố có sự bất hợp lý rất rõ. Ngày xưa giữa nghĩa địa những ngôi mộ tổ của các họ tộc uy nghi cách biệt còn bây giờ thì mạnh ai nấy được!
Đồng Mậu Tài có bay thẳng cánh
Sông làng ta nước chảy vòng quanh…
Trên chợ Nọ dưới tê chợ Sình…
Câu hò đã gợi hình về sự bao bọc giới hạn của một làng quê có những nét đặc trưng: Hói, làng, nghĩa địa, lũy tre, đồng ruộng thứ tự đan xen. Quý cụ tổ ngày xưa đã có một con mắt địa lý: Những ngôi tự đường của họ tộc quay hướng chếch Đông Nam nhìn về núi Kim Phụng của dãy Trường Sơn xa xa. Có dịp xem nhà Bá Kiến trên mạng nói về tư liệu của nhà văn Nguyễn Công Hoan, quê tôi có nhiều ngôi nhà rường trạm trổ quý phái lắm cơ! Chắc mỗi miền đất nước có dáng vẻ, kiểu cách khác nhau nên không áp đặt lên nhau được nhỉ.
Mấy ngôi cổ miếu cái còn, cái mất theo thời gian hưng phế nhưng vẫn còn đây nền gạch, chân móng của Miệu Vua.
Các ngôi Tam Miếu, Am Bà, Am Đôi… đến Đình Làng được bê tông hóa trong hệ thống đền miếu đã khắc ghi một nét văn hóa làng. Tam Miếu thờ quý Ngài Khai canh, Ngài Thau Thiết tuyến nghệ, Ngài Khai khoa xứ Thuận Hóa. Am Bà của hội đua trãi, Am Đôi của những tiểu thương. Miếu Thần Nông của những nông dân, Chùa Làng nơi vừa thờ Phật vừa thờ Quan Công mặt đỏ râu dài và cả ngựa gỗ xích thố nửa đấy.
….. Giờ thong thả với những bước đi từ cầu Lợi Nông về chợ làng ở Am Đôi đến Miệu Vua ở ven bờ hạ lưu sông Hương rồi ngước mắt nhìn làng xóm, tới cảnh ruộng đồng bao la: trong ký ức liên tưởng đến ngày xưa hằng mấy trăm năm là dấu chân quen thuộc của Tổ Tiên, Ông Bà bao đời trước đã in dấu đâu đây!
Phan Tiến
No comments:
Post a Comment